Thursday, December 22, 2022

59 - Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh Chương 59

CHƯƠNG 59
au tháng đầu với những thay đổi bắt buộc về chỗ ở, có khi cả về nhân sự; hiện tại đội 17 được đưa về nhà 5, ở chung với đội 13 và đội 7. Ở nhà 4 nằm chung trong một vòng rào có ba đội bạn là đội 25, đội 5 và đội 30. Điểm mặt hầu hết "nhân vật" của sáu đội này, không ai nói ra nhưng cả trại đều ngầm công nhận rằng đây là những đội gồm những kẻ "xấu", nếu không có thành tích trốn trại thì cũng phải có thành tích âm mưu... đốt trại. Công tác lao động của sáu đội này tuy giản dị nhưng nặng nề. Họ không được thoải mái như đội văn nghệ kiêm canh tác rau xanh; chẳng được tin yêu như đội lâm sản, sáng vác rìu đi tối vác về và trên lưng anh nào cũng lủng lẳng mấy cái măng rừng để bồi dưỡng; không ngon lành như đội mộc hoặc đội cơ giới (sửa công xa cho trại), được ở một khu riêng biệt ngoài vòng rào trại và tự do lai vãng đó đây; đội càng không được "quơ tay cũng có tí no lòng" như đội anh nuôi... Nói tóm, sáu đội trong hai dãy nhà số 4 và số 5 chỉ lao động quanh trại và khu xây cất mà thôi. Chưa bao giờ Vĩnh, trong một tháng qua, có dịp bước sang vùng đất bên kia con suối.
Riêng đội 17, nhiệm vụ hiện tại là đào ao và đắp một con đường từ cuối khu trại đang ở sang tới khu trại mới đang bắt đầu được xây cất. Công tác đào ao nơi đây quả không dễ ăn! Trước khi thi công đào ao, bọn tù phải khai quang cả một vùng đất rộng lớn. Khai quang ở đây lại cũng không phải là thứ khai quang ở Trảng Lớn hay An Dưỡng. Làm công tác khai quang nơi đây là suốt ngày bì bõm dưới những bãi lầy có từ thời... tạo thiên lập địa - nơi có đầy đỉa, vắt và muỗi mòng - để đào cho bật gốc những thân buông già trăm tuổi. Khi thân buông đổ xuống rồi, cả đội lại xúm vào dùng sức lăn thân buông trên những bãi lầy đến một nơi quy định.
Bọn công an gác tù nơi đây ác có lông bụng. Chuyện đánh đập, bắt quỳ hoặc kêu Trật Tự trói dẫn về trại nhốt cachot là chuyện cơm bữa. Nhưng chuyện ấy chưa hẳn đã làm một con người phải đau đớn. Chuyện đau đớn là, nơi đây, như được hưởng sự giáo dục đặc biệt của một chế độ đặt căn bản trên sự oán thù, bọn công an có lối mạt sát mà chỉ đến ngày xuôi tay nhắm mắt mới có thể hết thấy đau. Vĩnh không sao quên được tuần rồi, trong lúc bọn anh đang khênh những ki đá tảng nặng nề đến công trường xây cất, thì đội 30 làm công tác bên cạnh bờ suối; chẳng hiểu cuốc đất thế nào, ông Lý Trung Dung, một bác sỹ tuổi đã gần lục tuần, bị một thằng công an vệ binh tuổi chừng 17, 18 kêu đến trình diện. Bác sỹ Dung bỏ cuốc, đến trình diện thằng công an đang ngồi trên một cái ghế đẩu tránh nắng dưới một gốc buông rợp bóng mát. Thằng công an hầm hầm nhìn ông bác sỹ già, chỉ tay ra lệnh.
- Ngồi xuống!
Bác sỹ Dung đành ngồi xuống đất, bó gối ngước mắt nhìn lên thằng công an. Lấy một ngón tay chỉ chỉ vào mặt ông Dung, nó hằn học lên lớp. Anh già kia! Nơi đây tôi đại diện đảng giáo dục anh, thì tôi là thầy anh, có phải không?
Bác sỹ Dung khẽ nhắm mắt thay cho một cái gật đầu. Tên công an lại tiếp. Nơi đây không có bố mẹ anh, tôi thay mặt bố mẹ anh chăm cơm chăm áo cho anh học tập, thì tôi có phải là bố nuôi của anh không?
Nghe nó chửi một ông già nặng nề như thế, mấy thằng tù trẻ đứng quanh quất uất hận tràn hông. Nhưng ông già Dung vẫn chỉ khẽ gật đầu, nói lý nhí vài câu gì đó. Lắng nghe ông Dung nói xong, thằng công an bỗng đứng vùng lên, khoa chân múa tay. Đấy! Nó tiếp. Tôi vừa là thầy anh lại vừa là bố anh, thế mà tôi chỉ yêu cầu anh cuốc cho đều tay, lát nào cho ra lát ấy, tại sao anh vẫn tỏ thái độ ngoan cố chống bố chống thầy?
Ít phút sau, dù chữ nhẫn của ông có thể đã to gấp đôi chữ nhẫn của đức Phật, bác sỹ Lý Trung Dung vẫn bị trói dẫn về nhốt hầm tối...
Bọn Vĩnh lúc này đang phải quần quật khổ dịch dưới những đôi mắt giám sát của bọn công an gian ác như thế. Mặc khác, đội trưởng Tầm với sự trợ giúp "rất có kỹ thuật" của đội phó Hùng, hiện không còn nhỏ nhẹ dễ thương như những ngày đầu nữa. Một mặt nó lấy sức vóc của một lực sỹ để lao động làm gương, một mặt nó đeo sát anh em để báo cáo với thằng Thường, cán bộ quản giáo hiện tại của đội 17, về tất cả những gì đã xảy ra trong ngày. Gần đây, do sự tiến bộ quá nhanh của Tầm, nhanh đến độ đội phó Hùng là người của Ban Giám Thị công khai gài vào đội 17 cũng thấy bực mình. Đã có đôi lần, hai tay chức sắc này kéo nhau ra một chỗ kín đáo gấu ó nhau về lề lối điều động anh em trong công tác lao động. Sở dĩ Hùng cự nự cũng có lý. Hùng dù gì cũng là một anh tù không được to con cho lắm. Nếu đem cân giỏi lắm Hùng cũng chỉ hơn cái "trung tâm y tế toàn khoa Phạm Vĩnh" đôi ba ký là cao. Chưa kể anh ta tuổi tác đã vào cỡ 45. Mặc khác nữa, theo như anh em đoán già đoán non, Tầm đã dám qua mặt Hùng trong những công tác báo cáo về tình hình đội cho Ban Trật Tự. Điều này hẳn Tầm đã dẫm chân bạn một cách trắng trợn vì qua tìm hiểu, cả đội biết Hùng vốn là gà nòi của Ban Trật Tự.
Ngày tháng cứ lầm lũi trôi qua dưới những cơn mưa mù tháng Mười Một. Cả một khoảng rừng buông giờ đã biến thành một vùng đầm lầy nước đỏ như ráng trời và tanh chua như mùi mẻ hư. Theo đúng quy hoạch, khi việc khai quang trong một diện tích quy định đã xong, đội 17 phải bắt tay ngay vào việc đào ao và đắp đường.
Bốn tổ hiện nay của đội như hòa vào làm một cho công tác cực nhọc này. Người tay leng, người tay xẻng xúc từng tảng đất sình lầy quăng lên con đường đắp mỗi ngày một cao thêm. Phía bên này con đường đứng gần Vĩnh là Huy, Ý, Điểu, Trương Hồng, Dũng, Thương (hai người này là người cũ ở đây, mỗi người đều có thành tích trốn trại hai lần nhưng lần nào cũng bị bắt lại!)... Phía bờ bên kia, đối diện với bọn Vĩnh là đám Hóa, Dũng, Danh, Tuyến... mấy tay này đều là những sỹ quan và hạ sỹ quan trẻ tuổi, rất đoàn kết, vui nhộn và hay hòa nhạc với nhau.
Bọn quản giáo và công an vệ binh sợ bùn văng nên hiện nay chúng thường kiếm một chỗ ngồi khá xa nơi bọn tù lao động, nhờ vậy, cả đội lao động tương đối thoải mái, càng thoải mái hơn khi gần đây, do hậu quả lao động quá nhiều để làm gương, đội trưởng Tầm chịu không nổi cái đói, đã thường xuyên bỏ mặc đội lao động, lần mò sang những gốc buông bị đốn ngã để tìm nấm. Phải nói rằng Tầm là một người săn tìm nấm rất hay. Trại này đã nhiều tay trong dĩ vãng chết thê thảm vì ăn nhằm nấm độc, nhưng những mẻ nấm Tầm kiếm được không hề độc tí nào, bằng chứng chiều nào lao động về, Tầm cũng ngồi trước một xoong nấm xào thơm phức để ăn chung với chén bo bo của nhà bếp phát. Tuy nhiên, sự thoải mái nhất của bọn tù đội 17 là vừa đắp đường vừa tự do nghe anh chàng Tài xún răng kể chuyện chưởng. Tay này từng là một hạ sỹ địa phương quân dưới vùng 4. Chả hiểu vì cớ gì cũng tù tội từ 75 đến nay. Hắn "mồ côi" không ai thăm nuôi, nhưng nhờ có tài kể chuyện chưởng và tính tình dễ thương, Tài luôn luôn được anh em cung cấp đủ thuốc hút và rủng rỉnh mì vắt tôm khô nấu ăn mỗi ngày không kém ai. Mặc khác, cũng có một số anh em rất thích nghe những câu chuyện kể "rất hoang đường" của Tuyến về nước Mỹ, vùng đất Hứa của những con người thiếu thốn và khao khát Tự Do. Dù rằng trong đội có nhiều người từng du học Mỹ, nhưng những câu chuyện "dựng đứng" một cách hồn nhiên của cậu ấm Tuyến - con trai của đại tá Tồn cựu tỉnh trưởng Gia Định - vẫn làm mọi người hồi hộp theo dõi. Những câu chuyện Tuyến kể đại loại "trời Đông Bắc Hoa Kỳ sương mù và tuyết lạnh ghê gớm. Sương và tuyết đến độ có dạo cùng một lượt 4 cái phản lực cơ đã tông vào tượng Nữ Thần Tự Do, ấy thế mà chỉ có bức tượng bị rụng đầu còn bốn chiếc máy bay vẫn không bị xây xát một tí nào!".
Nghe ngứa lỗ tai, có người lên tiếng.
- Chuyện phong thần!
Tuyến vẫn hồn nhiên và nói như thật.
- Mày không biết thì im mồm đi. Khi nào về, mày lục tìm tờ New York Time số... bộ... ngày tháng năm... có tường thuật đầy đủ câu chuyện này lúc ấy mày sẽ tin tao. Nói tới đây, Tuyến xuống giọng thật hề. Anh tiếp. Nói chưa hết chuyện đã cãi! Bốn phản lực cơ vĩ đại ấy đều được chế tạo từ xưởng máy bay vĩ đại của miền Bắc xã hội chủ nghĩa vĩ đại chở phái đoàn Đảng và nhà nước ta vĩ đại đi tham dự hội nghị Liên Hợp Quốc vĩ đại!...
Trong không khí lao động như vậy, dù đói lạnh, ao đào vẫn mỗi ngày mỗi rộng mỗi sâu và đường đắp mỗi ngày mỗi dài mỗi cao. Tuy nhiên quản giáo Thường không phải là một người dễ tính. Hắn còn trẻ, tuổi độ 21 hoặc 22. Một lần nhìn thấy lề lối lao động của đội, hắn đã nổi giận đùng đùng và tập họp đội lại chửi bới một trận. Sau lần chửi bới này, chẳng hiểu do tranh chấp quyền lực thế nào, đội trưởng Tầm bị gọi làm tự kiểm vì cái tội bỏ bê đội đi kiếm ăn, và ban giám thị trại đọc lệnh bổ nhậm Đặng Xuân Hùng làm đội trưởng. Tổ trưởng tổ 2 là Mai Văn Lễ, một thiếu úy địa phương quân ở Thủ Đức trước kia, một thanh niên có sức khỏe như trâu được đôn lên làm đội phó. Đội trưởng là cháu Trường Chinh, đội phó là em một đại tá đang tại chức phục vụ trong BTL Quân Khu 7. Cả hai ông chức sắc này bắt đầu đưa đội 17 vào một "bước ngoặc quan trọng" ở tương lai.
Khi con đường đã nối được hai khu vực theo đúng kế hoạch, và trên mặt ao bắt đầu được thả rau muống thì bọn Vĩnh được chuyển công tác. Công tác mới là xén cắt những thế đất cao đổ vào thế đất thấp để biến một vùng đồi thành một giải đất bằng phẳng, làm nền cho những dãy trại sẽ được xây dựng sau này.
Mùa mưa đã bắt đầu lui dần để nhường lại cái lạnh của rừng rú ập đến với lũ tù vào những ngày tháng cuối năm. Công tác đào, khênh, đổ, đập đất chẳng thua gì công tác đào ao; nó cũng rất cực khổ cho lũ tù đói lạnh. Lại nữa, đây là một công tác lớn có nhiều trăm tù tham dự, do đó, chuyện thi công là chuyện không thể tránh khỏi. Nhưng với đội 17, hoặc 5, hoặc 13 thì chuyện có thi công hay không thi công thì cũng đến thế mà thôi. Anh em nhất định chấp hành tốt một câu nói lỡ của cách mạng, rằng "lao động tùy sức hưởng tùy lực". Một số đội già yếu được biệt phái làm gần những đội như 17, 5... dần dần cũng bị tiêm nhiễm cái phong thái làm cầm chừng. Trong lúc đứng xúc đất đổ lên những chiếc xe cải tiến cho anh em "chạy hàng", Vĩnh khoái trá nhìn mấy ông già của đội 47 và 12. Hiện tai nhìn họ lao động, bọn Vĩnh phải thú nhận mấy ông già ấy vừa bắt chước nhưng đã qua mặt ngay bọn trẻ. Họ cuốc đất nhát đực nhát cái và chủ yếu đứng nói chuyện gẫu với nhau. Chỉ trừ khi có người báo động "kiki đến!" họ mới tỏ ra lao động tốt, bằng không cứ thế mà cơm chúa múa tối ngày. Cái không khí phè này đã khiến những tay chức sắc kỳ cựu nơi đây phải lắc đầu, điển hình là đội trưởng Hùng của đội 17. Trong những lúc ngồi hút thuốc lào với nhau, vui miệng Hùng đã nói.
- Mấy ông già trước đây lao động hăng lắm đấy. Gần mấy ông đổ đốn ra!
Nhớ lời than thở có vẻ chịu đựng của Hùng, Vĩnh liếc nhìn mấy ông già lao động gần chỗ anh. Họ là ai? Kìa cha Bộ, vị linh mục cựu giám đốc Trung Tâm Fatima, người gần đây đã khẳng định với anh em rằng 30 tháng Tư tới đây, ông sẽ về làm lễ ở nhà thờ Bình Triệu... Cầm cuốc nhìn trời nhìn mây bên cạnh cha Bộ là cha Tường, vị linh mục khá béo tốt, vui vẻ nhưng lại rất ít nói. Cạnh đấy còn có ông Lê Sáng, một trong những người sáng lập ra môn phái Vovinam. Ông Mão, theo như ông nói, từng là một trong những nhân vật quan trọng hàng đầu của ban quản trị Việt Nam Thương Tín. Nhà báo già Lam Giang. Ông Đại móm, phó quản đốc trại cải huấn Đà Lạt, người mà cả mồm chỉ còn ba cái răng hàm và hai cái răng cửa nhưng nói tục còn dòn hơn cả bọn trẻ. Bác sỹ Lý Trung Dung, người một thời từng tổ chức hội chợ Thị Nghè, cầu sập chết bao nhiêu người. Ông cựu trung tá Thức, người tình nổi tiếng của vũ nữ nổi tiếng Cẩm Nhung. Đứng cạnh ông Thức là ông cha Thục, cựu giám đốc trường Chân Phước Liêm và nhiều trường công giáo khác, đã hoàn tục khi tuổi sắp về chầu Chúa!...
Nói chung chung, quý vị sồn sồn hay cao niên ấy đều lao động không lấy gì làm hồ hởi phấn khởi cả, cho dù có nhiều đội trưởng rất tích cực, lắm khi tích cực còn hơn cả bọn kiki trong việc đôn đốc anh em học tập tốt, lao động tốt. Nhưng dù có đôn đốc cách gì, đến thời điểm này các vị chức sắc cũng đều nhận thấy sự bất lực của chính mình. Đã ba năm rưỡi trời tù tội, cái sợ phải học tập lâu dài, nếu có, đã giảm đi quá nửa; cái hy vọng học tập tốt, lao động tốt, cải tạo tốt để được về sớm, nếu có, cũng đã mất đi chín lăm chín bảy phần trăm. Chưa cùi còn sợ ghẻ. Cùi rồi còn sợ gì? Mà giả như có sợ đi nữa, thì chắc bọn tù chỉ có hai cái sợ. Sợ cấm thăm nuôi và cấm... tắm cả đội.
Vĩnh còn nhớ trong hơn hai tháng trầm mình dưới bùn đào ao, chỉ vì cả đội không đạt chỉ tiêu và gặp ngày quản giáo Thường không vui, đã hai lần hắn cấm cả đội không cho ra suối tắm. Thật là kinh khủng. Bốn mươi người đã phải đem cả cái thân mình lẫn quần áo đầy bùn lầy hôi thối về phòng vốn đã chật như nêm cõi... Đó là chưa kể trường hợp vi phạm nội quy trong lao động, quản giáo có quyền cúp phép thăm nuôi một kỳ, hai kỳ hoặc ba kỳ liên tiếp không chừng.
Ba tháng qua, bọn Suối Máu vẫn chưa mấy người được gia đình lên thăm, dù trại Hàm Tân, dưới chế độ công an quản lý, những phạm nhân không vi phạm nội quy đều được gia đình lên thăm đều đặn mỗi hai tháng một lần (tỉ như gia đình có đủ sức lên thăm!). Có lẽ sự chậm trễ này là lỗi của con rùa bưu điện, vì chỉ sau hai tuần đầu, hầu hết bọn Suối Máu đều đã được phép viết thư về gia đình báo tin nơi ở để gia đình lo thủ tục giấy tờ đi thăm. Nhưng dù chưa được thăm, bọn Vĩnh vẫn không đến nỗi mù mờ tin tức như thời còn ở các trại cũ. Nơi đây, ngày nào cũng có người được thăm, do đó tin tức bên ngoài đưa vào nghe không hết. Những lúc đứng cuốc đất, Vĩnh có thể nghe được đủ loại tin tức do anh em đưa ra bàn. Tuy nhiên nghe để mà nghe, bọn Suối Máu hầu như đều mất đi cái thú... bình luận những tin đồn. Có lẽ vì trên này nhiều tin quá nên chán không muốn nghe nữa? Vĩnh không biết. Chỉ biết rằng chính anh cũng đang rơi vào tình trạng muốn buông xuôi hoàn toàn, mà triệu chứng rõ ràng nhất là mọi tin đồn nghe xong đều được bỏ ngoài tai tức thì.
Nhưng trong bọn Vĩnh có một người không bao giờ chịu nghe xong rồi bỏ ngoài tai. Anh ta nghe rồi là giữ cứng lấy nó và đem nó về phòng ngủ để quấy rầy bạn bè. Người ấy là Phạm Xuân Huy. Từ ngày di chuyển về Hàm Tân, anh Huy đổi chứng và giao du rất bừa bãi. Gặp ai anh cũng moi ruột ra để lấy cảm tình mà... khai thác tin tức. Nhóm ăn từ trước chỉ có năm người gồm anh Huy, Ý, Điểu, Dương và Vĩnh; bỗng một ngày mọi người miễn cưỡng nhận thêm một ông bạn mới của anh Huy tên là Nguyễn Tú Cường. Thực ra anh em chẳng ai ghét Cường, quý là đàng khác vì Cường trẻ và gan dạ. Hạt muối cục đường Cường thường được thỏa mãn mỗi khi cần đến. Chỉ kẹt cái tội Cường hay ba hoa, chưa kể cái dĩ vãng hơi bất thường của anh khiến đa số anh em khó chịu mỗi khi Cường hồn nhiên đem ra khoe. Cường vốn là một hạ sỹ đào ngũ, tuy nhiên đã lấy được một cô vợ con nhà giàu nhờ mấy năm trời qua lại bằng cái lon đại úy giả. Sau khi mất nước, vợ chồng Cường đã có đâu hai ba con. Cường bỗng dưng ở vào cái thế khá kẹt vì cả xóm ai cũng biết Cường là... đại úy. Ngay vợ con anh cũng không hề ngờ anh đã mang lon đại úy giả mấy năm trời. Cuối cùng, Cường bấm bụng đi trình diện học tập theo diện đại úy với ý nghĩ rằng thôi thì đi mười ngày rồi trở về làm thường dân sống nuôi vợ con. Ai ngờ cách mạng nói vậy mà không phải vậy! Tù tới năm thứ hai Cường chịu hết thấu, bèn xin gặp cai tù khai thật hoàn cảnh. Chả hiểu may hay rủi, bọn cai tù liên lạc với địa phương yêu cầu gia đình Cường xác nhận Cường là đại úy hay là hạ sỹ. Sau khi được địa phương kêu lên hỏi, vợ Cường một mực khai rằng chồng tôi là đại úy. Sau vụ đó Cường bị bọn cai tù lôi lên đập cho một trận rồi đem nhốt cachot cả tháng trời. Anh Huy cảm kích cái dĩ vãng nằm cachot ấy bèn kéo Cường vào ăn cùng nhóm. Trong bữa ăn, cả bọn vừa nhai bo bo vừa lắng nghe Cường nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, nhất là những "tin tức quan trọng" mới thu thập được trong ngày, thứ tin tức rất hợp "khẩu vị" của anh Huy.
Chiều nay, khi các đội được lệnh cho ra suối tắm như mọi chiều, Cường trang trọng thông báo một cái tin nóng hổi mà anh ta mới thu thập được, theo đó nay mai trại Hàm Tân sẽ nhận lãnh thêm một số tù nhân quan trọng khác nữa.
Cái tin nóng hổi của Cường không làm cho Dương và Ý đổi ý chiều nay phải bơi nhiều hơn chiều qua; không làm cho Điểu thôi cằn nhằn rằng nhóm ăn đã không còn một hạt muối nào; và nhất là không làm cho Vĩnh mất đi sự bình thản tắm xong lên một hòn đá ngồi nhìn sang bờ suối bên kia. Bên ấy, xa xa là bìa rừng, chỗ mà Thương và Dũng đã nói với Vĩnh rằng trông vậy đấy, chứ bên trong nó có đầy chốt của tụi công an. Mấy lần trốn trại Thương và Dũng hầu như thua chỉ vì những cái chốt ấy...

 

60 Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh Chương 60

Chương 60

ỗi đội đều có một cái kho nhỏ chứa cuốc leng xẻng nằm ngay phía sau khu đan tre. Mỗi sáng sau khi rời cổng trại, những đội làm nhiệm vụ đào xới hoặc đắp đường đắp đê phải đến kho nhận đồ nghề, cũng như chiều về tổ trực đều phải kiểm kê và đem nộp về kho cho đầy đủ. Mọi hư hỏng phải báo cáo để được đội sáng chế và bảo quản dụng cụ sản xuất sửa chữa kịp thời. Nhưng gần đây, những "dụng cụ sản xuất" cứ từ từ không cánh mà bay. Đội 17 có 40 người lao động mà dần dần chỉ còn độ nửa số người được trang bị cuốc xẻng. Công tác do đó ngày mỗi chậm lại đến độ Ban Giám Thị trại phải lưu ý. Bọn quản giáo các đội chả hiểu vì cớ gì, dù được đội trưởng báo cáo rất thường xuyên nhưng chúng vẫn lờ đi, coi như sự thất thoát nằm ngoài trách nhiệm của chúng.
Riêng bọn tù các đội càng thấy vui khi sự thất thoát đồ nghề ngày càng nhiều. Không cuốc xẻng để hai tay được nghỉ ngơi một cách hợp pháp không sướng hơn hay sao? Suốt ngày, vừa dựa dẫm cho qua chuyện vừa nghe anh Huy nhai nhải hát một bài ca cách mạng bằng lời ca mới. "Cây cuốc cong thì cầu mong cây cuốc gãy. Cây cuốc gãy thì ta thảy nó vô lò..." mà đâm vui. Hơn thế, vì đói lại rảnh rang, anh Huy khởi sự bắt chước nhiều anh em khác lùng bắt cắc kè, kỳ nhông, cào cào, châu chấu nướng ăn tại chỗ. Dù cũng đói lê lết như các bạn nhưng Vĩnh vẫn không cách gì ăn được những thứ ấy. Cứ nhìn hình ảnh Dũng nhảy dù ngồi ăn rắn thằn thằn Vĩnh đã muốn phát lợm. Hắn chụp được một con thằn lằn có chửa ném ngay vào đống lửa. Con rắn sau vài cái giẫy giụa bắt đầu bốc mùi khét và như nở lớn ra. Dũng vội cầm lên. Hắn phành bụng con rắn và ghé mồm vào mút cái chụt. Cả một bộ đồ lòng lẫn cái thai rắn chui luôn vào bụng Dũng. Ăn xong bộ đồ lòng, Dũng ngả người tựa lưng vào một thế đất cao, chậm rãi lột da và ăn luôn phần thịt rắn còn lại vốn đã cháy nham nhở. Bên cạnh đấy anh Huy và những ông bạn phàm ăn khác ngồi nhai rau ráu những con cào cào nướng cháy. Gần đây, cũng có lúc Nguyễn Tú Cường len lỏi ra chỗ mấy thân buông đổ nát gần ao cạnh tranh với Tầm - kẻ giờ đây cả đội đều ghét bởi cái tật để quản giáo chửi hoài chuyện đi kiếm ăn linh tinh - để tìm nấm. Cũng có chiều Cường đem về cả túi nấm và đem luộc. Tuy nhiên mớ nấm ấy chỉ có Cường, anh Huy và Dương ăn với nhau. Vĩnh, Điểu và Ý tuyệt nhiên không đụng đũa. Hình ảnh những anh chàng chết vì nấm độc, ngũ khếu đều xuất huyết, nằm la hét cào cấu và giẫy giụa cho đến chết, không cách gì phai mờ được trong óc Vĩnh.
Thế nên, dù hiện nay thiếu đồ nghề lao động, Vĩnh vẫn không thể nào có được những giờ phút "thần tiên" như anh Huy hay như vài người bạn khác. Vĩnh đứng làm việc cầm chừng, hoặc chạy xe cải tiến, hoặc đứng nghe Lợi nghe Tuyến kể chuyện, hoặc suy nghĩ nhớ nhung vẩn vơ. Tất cả những hình ảnh của ngày qua một lần nữa trôi qua óc Vĩnh, nhiều cái thật rõ nét, nhiều cái lại mập mờ như những tấm phim hư... Tại sao mình không tìm cách mua chuộc bọn công an quản giáo nhỉ? Trại này, như Đặng Xuân Hùng tiết lộ, trước đây đã có hai lần tù móc ngoặc và mua chuộc được cán bộ quản giáo. Bọn quản giáo đã cung cấp đồng phục công an cho tù, rồi dẫn tù đi đường tắt trốn khỏi trại; sau đó, hai tên quản giáo cũng đào ngũ luôn. Chuyện này đã gây chấn động lớn trong giới công an đến độ tên thượng tá Đào Lưỡng, kẻ chỉ huy tổng quát các trại tù Chí Hòa, Suối Máu, Hàm Tân và Tống Lê Chân (sau này coi luôn một số trại ngoài miền Trung) phải cho nhân viên thân tín xuống điều tra nhưng không hề tìm ra manh mối. Ban Giám Thị trại hầu như đều bị phạt dây chuyền vì đã không quản lý tốt lẫn nhau, nhất là để cho hai tên đồng bọn đào ngũ đem theo cả súng cá nhân... Nhung mua chuộc chúng bằng cách nào? Vàng ư? Đào đâu ra vàng? Tên quản giáo hiện thời của đội 17 không còn là tên Thường nữa. Thằng ấy đã đi phép về Bắc và nghe nói sẽ đi luôn đến đơn vị mới. Quản giáo hiện thời của đội 17 là một anh chàng mập mạp tên là Phú. Hầu như cả buổi lao động Phú ngồi lỳ trong nhà lo đọc chưởng. Tay này phải nói là một tay mê đọc sách. Bọn Vĩnh không hiểu trình độ văn hóa của hắn tới đâu, nhưng thấy hắn mê đọc sách đến độ lơi là cả việc kiểm soát tù lao động, cũng thấy có cảm tình với hắn. Không hiểu hắn có đọc tiểu sử tù hay không, bỗng một ngày quản giáo Phú gọi Vĩnh vào nhà lô hỏi han chuyện trên trời dưới đất, sau cùng hỏi đến chuyện sách báo miền Nam. Thấy Phú ăn nói tương đối biết điều, Vĩnh bấm bụng đi một tràng tuyên truyền. Phú ngồi nghe say mê ra mặt. Hồi lâu, Phú hỏi.
- Vậy tủ sách cá nhân của anh chắc cũng phải trăm quyển?
Vĩnh cười.
- Nói thật với cán bộ, sách của tôi trước khi cách mạng cho phường đội vào tận nhà tịch thu, ít ra cũng phải ngàn quyển, đủ loại.
- Tịch thu hết?
- Vâng, tịch thu hết!
Quản giáo Phú có vẻ tiếc rẻ. Sau cùng, hắn thở dài và an ủi Vĩnh một câu.
- Thôi anh cũng cứ lấy làm vui đi. Số sách ấy chẳng mất đâu. Để nhân dân làm chủ tập thể cũng tốt thôi...
Chẳng hiểu sao Vĩnh không cầm lòng được, anh nói toạc ra luôn.
- Cán bộ không biết đấy thôi! Nếu mà được nhân dân làm chủ tôi đã chẳng lấy làm tiếc; đàng này, đám thanh niên thiếu nữ ở phường đội đưa mấy xe ba gác đến tận nhà tôi, tự động gỡ hết các sách trên kệ xuống và vứt vào một đống như cái núi giữa nhà. Sách rách bươm hết. Sau đó họ hốt từng đống quăng lên xe ba gác như quăng đồ rác rưới. Đi dọc đường đồng bào trong xóm chạy theo xin xỏ. Họ quăng đại cho mỗi người ít cuốn để xe đỡ nặng. Tôi biết chắc đồng bào khu tôi ở chẳng ai tiếc gì những quyển sách ấy mà giữ gìn. Buổi giao thời thiếu củi lửa, họ xin mà nhóm bếp đấy thôi!
Từ đó, quản giáo Phú càng tỏ ra có cảm tình đặc biệt với Vĩnh. Hắn hay gọi Vĩnh đến nói chuyện cho qua những giờ lao động. Quả tình trong thâm tâm, Vĩnh rất ngại phải ngồi nói chuyện tay đôi với bất cứ thằng cộng sản nào trong hoàn cảnh này. Trong lao tù, phải nói rằng không có gì dễ gây ngộ nhận cho anh em bằng việc cứ thường xuyên phải tiếp xúc với cai tù. Chẳng hiểu có lần nào Vĩnh tỏ một thái độ khó chịu hay không, mà Phú có lần nói.
- Tôi thấy anh là người yếu nhất đội. Lại đang ho ra máu. Ban y tế nơi đây lại không có chỗ nằm cho người bệnh lao... Thôi thì ráng khắc phục vậy. Nói rồi Phú tươi cười. Để giúp đỡ riêng anh, tôi cho phép anh lao động tùy sức... Khỏe thì làm, yếu thì nghỉ.
Thế rồi chả hiểu sao, sau một lúc suy nghĩ, Phú nhìn Vĩnh, tiếp. Tôi hiểu các anh bất mãn nhiều với chế độ! Nhưng tôi cũng nói để anh nghe, những điều họ đang làm hiện nay là đang phá nát giấc mơ của bác (!?). Tôi bảo thật đấy. Giai đoạn này đúng ra cách mạng đâu có cần chuyên chính triệt để như thế này nữa!...
Dù có kinh ngạc trước lời tâm sự ngang xương của thằng cộng sản, Vĩnh cần thấy thương ngược cho tên quản giáo. Số nó u tối thì đến chết vẫn u tối! Đến ngày nay nó vẫn tưởng bác Hồ của nó ghê gớm lắm, nhân đạo lắm, tài ba lắm! Nó đâu có biết rằng già Hồ mà còn sống, chưa chắc gì đất nước này đã có trại tù Hàm Tân mà là cái nghĩa địa Hàm Tân không chừng!
Từ buổi đó, Phú cũng không kêu Vĩnh nói chuyện khơi khơi nữa.
Đang thơ thẩn cuốc đất và nhớ lại những ngày qua, Vĩnh bỗng giật mình vì một tiếng gọi lớn từ con đường chạy giữa những lũy tre và giòng suối.
- Anh Hà Thúc Sinh!
Vĩnh ngó ra con đường. Anh nhận ra người gọi mình là Tân Dân. Dân đang đứng thở dốc bên một gánh rau rất nặng. Bên cạnh Dân còn có một người bạn nữa cũng đứng thở dốc như Dân.
Vĩnh bước vài bước tới gần hàng rào tre, nói nhỏ.
- Làm gì đứng đây?
Dân vui vẻ.
- Sang khu A gánh rau về cho bếp bên đó anh! Anh khỏe không!
Vĩnh gật đầu.
Tân Dân mới biên chế sang khu B chừng ba tuần nay. Trước Dân ở cùng nhà với Vĩnh. Dân chơi thân với Thương và Dũng. Thực ra, hồi mới dời vào nhà 5 chính Dân là người nhận ra Vĩnh. Rồi nhờ đôi ba câu chuyện. Dân kể lại một cách nồng nhiệt sau đó, Vĩnh mới biết rằng đã có lần anh và Dân gặp nhau nơi cái quán cà phê cơm tấm đối diện với tòa soạn báo Sóng Thần... Bẵng đi tám chín năm sau, Vĩnh và Dân lại gặp nhau trong tù. Dân vẫn trẻ và... lùn như xưa, duy có gầy đi thật nhiều. Quả tình Vĩnh không đi sâu lắm vào đời từ của Dân trong thời gian hai người ở cùng nhà, nhưng qua lời kể, Vĩnh biết sơ qua tiểu sử của Dân có vợ một con và nhà cửa ở Vũng Tàu. Dân bị bắt theo diện phục quốc, từng bị giam ở Chí Hòa trước khi chuyển về đây. Dù sao đám ba tay trẻ ăn chung với nhau là Thương, Dũng và Dân là một cái gì đáng lưu ý cho mọi người. Ba người đều trầm tĩnh và ít nói trước tuổi. Ngồi ăn cơm với nhau và ít khi thấy họ mở miệng cười đùa hay chuyện trò thân mật như những đám khác. Ngoài Dũng và Thương đã có thành tích trốn trại, còn Dân thì chưa thử lửa lần nào. Tuy nhiên, Vĩnh đoán biết thế nào cũng có ngày Dân vượt ngục. Điều ước ao thầm của Vĩnh là đừng bao giờ Dân vượt ngục theo cái kiểu điên rồ mà Dân từng hỏi ý Vĩnh trong một lần tắm dưới suối. Liệu lúc mình tắm lên, tụi nó đang sơ hở, mình có thể phóng chạy vào bìa rừng đàng kia không anh? Nghe Dân hỏi Vĩnh tưởng hắn đùa. Anh ước lượng khoảng cách từ rừng buông tới bờ suối, đáp. Đạn AK nhất định nhanh hơn đôi chân cậu!
Nghe Vĩnh nói, Tân Dân bỗng đăm chiêu và nói một câu thật nghiêm chỉnh.
- Sẽ có lần tôi thử xem cái nào nhanh hơn cái nào...
Sau đó Dân được chuyển sang phân khu B. Thỉnh thoảng có lúc nằm nhớ tới Dân, nhớ tới tính tình của hắn và lời hắn nói, Vĩnh không khỏi e ngại sẽ có ngày Dân chạy đua thử với độ nhanh của đạn AK như hắn từng nói...
Giờ lại gặp Dân chỗ này. Hai người nhìn nhau chẳng biết nói gì hơn. Dân và người bạn gánh rau đã ngồi bệt xuống lề đường. Hình như họ chờ những người bạn khác từ phía sau. Vĩnh hỏi.
- Lấy rau từ đội nào vậy?
- Rau đội văn nghệ đó anh!
- Có gặp anh Nhật Bằng không?
Sở dĩ Vĩnh hỏi thế vì Vĩnh biết đội trưởng đội văn nghệ kiêm canh tác rau xanh là nhạc sỹ Nhật Bằng. Hồi mới về đây, Vĩnh có gặp anh ta một hai lần nhưng lâu nay không có dịp gặp lại. Vĩnh cũng biết Nhật Bằng không ở tù theo diện trình diện cải tạo (dù anh là sỹ quan cấp úy làm việc lâu năm cho đài phát thanh của cục tâm lý chiến). Chẳng rõ vì lý do gì, theo lời anh kể, bọn công an thành đã Sài Gòn xuống tận Biên Hòa bắt anh tại nhà. Về trại Hàm Tân, bọn giám thị đưa anh vào đội văn nghệ và anh giữ chức đội trưởng đội này, dưới tay có một ông tiến sỹ âm nhạc từng tốt nghiệp tại Nga, đã trốn qua tây phương và chiêu hồi VNCH từ giữa thập niên 60.
Dân đã chui qua bụi tre, ngồi tụt vào một thế đất thấp ngay trước mặt Vĩnh. Hắn nói.
- Ngồi đại đây nói chuyện anh. Lâu nay có tin gì lạ không? Thằng Thương thằng Dũng có lao động gần đây không?
Vĩnh chỉ tay về phía những người tù đang đẩy xe cải tiến, nói.
- Hai thằng khỉ nó đang chạy xe cải tiến đầu ấy. Bên phân khu B lúc này ra sao?
- Cũng vậy thôi anh. Đang trong tình trạng dựng thêm nhiều dãy nhà ở nữa. Cũng tốt thôi! Nhưng nổi lửa đốt nó được thì tốt hơn!
Ngay lúc ấy Vĩnh phải chấm dứt câu chuyện. Đội phó Mai Văn Lễ đã tiến lại gần Vĩnh. Hắn nói khẽ.
- Vệ binh nhìn anh từ nãy đến giờ. Anh coi chừng họ cùm anh vì tội liên hệ linh tinh đấy.
Nghe một người lên tiếng báo động, Dân vội vàng chui qua hàng rào ra đường và thúc người bạn đồng hành quang gánh lên vai. Hắn chỉ giơ cao cái nón lá rách bươm lên ngoắc chào Vĩnh rồi cùng người bạn gánh gánh rau bỏ đi. Theo lời yêu cầu khéo của đội phó, Vĩnh quay trở lại chỗ có đông anh em đang cuốc xới những thế đất cao quá đầu người.
Nhưng rồi Vĩnh chẳng cuốc thêm được mấy lát nữa thì kẻng tập họp đã nổi lên. Khắp nơi, như những xác chết vùng sống dậy, bọn tù đều nhanh chóng thu đồ nghề và kéo đến vị trí tập họp. Một ngày kết thúc đem đến niềm vui khó tả cho bọn tù khổ sai vô hạn định như bọn Vĩnh. Cũng như mọi ngày, trừ khi có một hiện tượng vi phạm nội quy trong lao động quá rõ ràng đến độ quản giáo Phú không thể tránh khỏi chuyện lên lớp, đội 17 thường là đội được dẫn ra suối tắm trước nhất. Quả thực niềm vui nơi đây chỉ xảy ra khi một ngày sắp tàn. Vùng vẫy dưới suối mươi mười lăm phút, cái mệt nhọc tích tụ trong ngày như trôi hết theo giòng nước. Rồi kế đó trở về trại, nhận phần ăn, có gì thì xúm lại nấu nướng với nhau một chút trước khi bị dồn hết vào chuồng. Đêm đến, chỗ đàn địch, chỗ cờ tướng, chỗ domino, chỗ kể chuyện kiếm hiệp...
Vĩnh đứng tắm dưới suối và như mọi ngày, anh ngó quang cảnh với mọi biến chuyển đang xảy ra chung quanh. Dù đã bao lần cố gắng, chả hiểu sao Vĩnh không tài nào tham dự hay chia xẻ được tí niềm vui vào một cuối ngày của anh em. Lòng Vĩnh cứ trơ ra như đá. Có lúc anh Huy, với bản tính hay đùa giỡn, lặn từ xa đến nắm chân Vĩnh kéo mạnh đến hụt hơi uống nước, Vĩnh vẫn không thể nào bắt được cái đà đùa giỡn với các bạn. Nghĩ tới lúc về phòng, ngồi nhai bo bo với những cọng rau muống già cỗi Vĩnh còn buồn hơn và thốt phát rùng mình. Những cọng rau muống! Thật kinh khủng! Vĩnh chợt nhớ tới những buổi sáng, đám tù trực lấy phân nhào đến các dãy cầu tiêu giành giật từng thùng phân để đổ vào thùng của tổ mình. Những thùng phân ấy đầy ắp những hạt bo bo to gần bằng hạt ngô, vẫn căng mọng, vẫn óng ánh màu vàng, an toàn trong lớp mày dày như nylon dù nó đã trải qua một quá trình tiêu hóa trong bụng dạ con người.
Những thùng phân bo bo ấy được cung cấp cho các đội rau xanh lấy bón ao rau; nói bón cho đẹp đẽ, thực ra các đội rau xanh đem rải lền khên xuống các ao rau và dù mưa nắng dập vùi cả tuần, hạt bo bo vẫn chưa có dấu hiệu nào tiêu tán. Khi cơn mưa làm cho các ao rau muống dâng nước lên, các hạt bo bo nổi lềnh bềnh và bám vào lá, vào thân cây rau muống.
Mỗi ngày, đội rau xanh thu hoạch rau muống từ các ao rau về cung cấp cho đội anh nuôi. Với không quá năm người được cắt cử việc nhặt, rửa và luộc rau để cung cấp cho 1.600 khẩu phần; có ba đầu sáu tay năm người ấy cũng không thể nào chấp hành công tác một cách vệ sinh đầy đủ được. Từ chỗ thiếu vệ sinh vì phải làm thật nhanh cho kịp giờ ấy, mỗi chiều, khi tổ trực xuống bếp nhận khẩu phần về phát lại cho anh em, Vĩnh và các bạn ngồi trong bóng chiều nhá nhem lọt qua chấn song của phòng giam khóa kín, chậm rãi nhai chén bo bo với những cọng rau muống cũng dính những hạt bo bo như thế; tuy nhiên Vĩnh thừa biết những hạt bo bo ấy đã từng bị trải qua nhiều lần tiêu hóa!
Dù sao chuyện ăn chưa đáng buồn bằng chuyện ngủ nơi đây! Trảng Lớn và An Dưỡng dù sao còn được nằm trên nền xi măng của "Mỹ ngụy" để lại! Suối Máu dù có phải trở về với truyền thống dân tộc kiểu Hồ Chí Minh, nghĩa là nằm đất, nhưng cuộc đời coi vậy mà đỡ thê thảm. Ngày nay sống dưới chế độ văn minh văn hóa kiểu công an, cuộc đời bọn tù bước vào một bước ngoặt vĩ đại, ấy là ban đêm không chỉ phải đánh vật với cơn buồn, mà còn phải đánh vật với ba kẻ thù khác nữa: Muỗi, chuột và rệp!
Muỗi thì tương đối trị được khi bọn tù có mùng. Chuột cũng trị được khi cả phòng không thiếu người thèm thịt. Riêng rệp thì chịu thua! Chịu thua hoàn toàn! Rệp đã, trên thực tế, biến thành cơn ác mộng của bọn tù trại Hàm Tân!
Nơi đây nằm sạp hai tầng. Sạp được làm bằng gỗ giác (tức lớp gỗ vỏ được đội mộc của trại thải ra). Vì lâu ngày, gỗ giác thấm mồ hôi của tù, cộng với không khí ẩm thấp của rừng buông, gỗ giác bắt đầu sinh rệp. Đã nhiều chủ nhật, bọn tù tự phát động phong trào diệt rệp, bằng cách nấu nước sôi đem đổ vào những kẽ ván. Bọn giám thị trại cũng có lần cung cấp cho tù một ít bột DDT để dùng vào công tác diệt rệp; tuy nhiên, sau những lần dội nước sôi hoặc rắc bột DDT, không hiểu có phải làm như thế là tăng thêm độ nóng cần thiết cho hàng tỉ cái trứng rệp nở ra hay không, mà rệp trong các phòng sinh sản còn dữ dội hơn trước thập phần. Trước giờ ngủ, một trăm hai mươi người của mỗi dãy phòng đều giở chăn chiếu mùng mền ra bắt rệp. Suốt ngày đi lao động, phòng yên lặng và rệp tha hồ rúc vào những chăn những chiếu nằm mai phục sẵn. Khi bọn tù mở ra, rệp bị giết hàng loạt. Có đêm, chỉ nội một cái màn, Vĩnh bắt và giết chừng bốn mươi con rệp. Sáng ngủ dậy, vừa mở mắt ra, trên đỉnh màn rệp đã bám đen như rải đậu. Có khác chăng là những con rệp buổi sáng to hơn, đen hơn vì trong bụng chúng đều đã có chứa một lượng máu người!
Rệp! Nỗi sợ rùng mình, cơn ác mộng khôn nguôi của tù trại Hàm Tân, một thứ kẻ thù lỳ lợn, dai dẳng và hút máu mủ con người bạo tàn không thua gì kẻ thù cộng sản. Có thể nói rệp là một thứ ký sinh trùng có nhiều điểm giống cộng sản nhất, và người ta chỉ thực sự diệt được nó khi có can đảm đốt hết, đốt sạch tất cả để rồi sẽ chấp nhận làm lại tất cả.
Với hai cái ăn và ngủ nơi đây cũng làm cho người ta thấy cuộc đời "kém vui" rồi, đùa giỡn tươi cười thế nào được nữa!?
Tắm xong, Vĩnh leo lên bờ mặc quần áo và ngồi đợi anh em. Đội trưởng Hùng bỗng xà tới chỗ Vĩnh ngồi, kể lể đôi ba câu chuyện. Anh ta lôi cái điếu cầy đặt bên hông ra và bật lửa kéo một điếu. Vĩnh cũng kéo ké một hơi. Hùng lùng bùng than thở mấy chuyện xảy ra trong đội, nào là Lê Văn Tầm mất tư cách quá, nào là đám Hòa Danh Tuyến lúc này đêm nào cũng hòa tấu nhạc vàng, nào là trong nay mai Hùng có thể sẽ được sang đội khác để được sinh hoạt hợp với tuổi tác của anh ta hơn... Trong những câu chuyện kể lan man của Hùng, có một câu chuyện Vĩnh lưu ý nhất. Khi trưa, Ban Giám Thị trại có bắt giữ mấy người dân từ ngoài quốc lộ mò vào đào xới ăn cắp khoai mì. Tệ hại hơn, những cuốc xẻng mấy người dân này sử dụng đều được nhận diện là cuốc xẻng của trại từng bị đánh cắp. Nghe nói qua lời khai của những người bị bắt, có một số cán bộ trại bị liên lụy vì chính họ đã ăn cắp dụng cụ sản xuất của trại, bán rẻ cho nhân dân bên ngoài lấy tiền bỏ túi...

61 - Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh - Chương 61

Chương 61
hững ngày cuối năm Tây lịch 1978, không khí trại Hàm Tân nhộn nhịp hẳn lên. Hầu như mọi tin tức về sự căng thẳng quân sự vùng biên giới Việt-Hoa và Việt-Miên bọn tù đều nắm vững hết. Giai đoạn này, nếu bình tâm mà xét, có lẽ là một giai đoạn bi hài nhất trong suốt quá trình lịch sử mấy ngàn năm của Việt Nam. Không bi hài sao được, khi mà hầu như cả nước, vì hận thù một chủ nghĩa và một bọn người đồng chủng có chính sách cai trị bạo tàn, đều cùng mong có một thế lực nào khác, dù thế lực ấy là bọn Tàu có mối thù nghìn đời với dân tộc, kéo đến đập tan cái bọn đồng chủng tàn bạo vô nhân kia đi, rồi sau đó ra sao thì ra, cùng chết hết một lượt cũng được!
Trong cái không khí ấy, Vĩnh và mấy người bạn thân cận lần lượt được gia đình lên thăm.
Ở đây chuyện thăm viếng khác nhiều với chuyện thăm viếng dưới chế độ quân quản. Thằng quân quản phải nói rằng nó hơi "văn nghệ", do đó chuyện thăm viếng của tù nó tổ chức tùy hứng, trồi sụt rất là bất thường! Có khi thì ba tháng được thăm một lần, có khi buồn buồn nó để đến năm tháng mới cho viết thư về nhà báo tin được phép lên thăm. Dưới chế độ công an, việc thăm viếng được quy định rõ ràng trong nội quy: "Bất cứ phạm nhân nào không vi phạm nội quy đều được trại cho phép gia đình lên thăm và tiếp tế nhu yếu phẩm thuốc men cần thiết mỗi hai tháng một lần". Dù sao, do cái mỗi hai tháng một lần ấy, bọn tù ở trại Hàm Tân đã mất dần đi cái cảm trạng sung sướng được gia đình lên thăm và tiếp tế. Trừ những anh nhà giàu, còn những anh nhà nghèo sau đôi ba lần thăm, tự nhận xét thấy bao quà mỗi ngày mỗi teo nhỏ lại và vợ con cha mẹ mặt mũi lần thăm thứ ba xanh hơn lần thứ hai, lần thứ tư nhợt nhạt hơn lần thứ ba... thì bắt đầu thấy việc thăm viếng của gia đình không còn vui nữa. Anh cải tạo có gốc quân nhân công chức bắt đầu tìm cách can khéo sự thăm viếng quá đều đặn của gia đình!
Dù sao đối với Vĩnh đây là lần thăm đầu ở Hàm Tân, do đó Vĩnh vẫn được hưởng nguyên vẹn cái cảm trạng sung sướng. Thêm nữa, tính Vĩnh thích quan sát và ghi nhận, vì vậy lần thăm đầu có thêm một lý do cho anh nôn nóng tận tình.
Như tất cả mọi gia đình khác, khi nhận được thư báo thăm, gia đình Vĩnh phải chạy đủ mọi loại giấy tờ ở địa phương; từ giấy phép đi đường, giấy phép xin miễn thuế những món quà đem theo, giấy phép thăm nuôi phạm nhân... Nói tóm chỉ nội vụ giấy phép thôi, gia đình đã phải bỏ hết công ăn việc làm chạy tới chạy lui cả tuần lễ. Sau khi có giấy phép lại phải chạy khắp bà con lối xóm hỏi đường hỏi xá, và khi vấn đề đường xá xe cộ đã nắm vững, gia đình bắt đầu một chuyến đi thăm bằng một buổi sáng tinh sương. Rồi thì qua nhiều nẻo đường đất nước, thường thường người nhà từ Sài Gòn lên tới khu thăm viếng của trại Hàm Tân vào lúc giữa trưa.
Tuy nhiên, để vào được tới khu thăm không phải là chuyện dễ ăn. Từ đường nhựa, nơi xe đò thả xuống, thân nhân phải thi nhau gồng gánh những bao quà nặng nề (nếu nghèo phải hà tiện tiền bạc, không thuê những trẻ em gánh thuê ngồi đầy ngoài quốc lộ), vào tới khu thăm. Từ ngoài ngã ba quốc lộ vào tới khu thăm cũng xa hơn một cây số. Hơn một cây số ấy không phải là không vất vả với con đường đất mưa ướt trơn trượt. Nhưng rồi có cực nhọc mấy, cuối cùng người đi thăm và quà cáp cồng kềnh đều vào tới khu thăm cả. Sau những màn khai báo, trình khám... người đi thăm được vào ngồi nơi phòng đợi. Một anh trật tự có nhiệm vụ nhận danh sách từ tên công an trực khu thăm đem về trại để thông báo kịp thời tới người có tên thăm nuôi. Công việc này anh chàng trong ban trật tự chỉ phải làm hai lần trong một ngày, lần thứ nhất vào lúc bảy giờ sáng, lần thứ hai vào lúc một giờ trưa. Nói tóm danh sách những người được thăm phải được đưa vào trình giám thị trực trại trước giờ tập trung đi lao động. Do điểm này, nếu người nhà đến được khu thăm vào trước mười hai giờ trưa, thì có rất nhiều hy vọng được gặp thân nhân sau hai giờ trưa và trở về Sài Gòn kịp trong ngày. Còn nếu đến khu thăm nuôi mười hai giờ trưa, cầm bằng người đi thăm phải ngủ lại ngoài khu thăm để chờ các đợt thăm sáng ngày hôm sau. Nhưng việc phải ngủ lại đêm ngoài khu thăm không chỉ xảy ra cho những bà con ở các tỉnh xa đi thăm mà ngay người ở Sài Gòn cũng vẫn bị kẹt ngủ lại cả đêm là chuyện thường.
Mặt khác, tuy những thủ tục trên đã hoàn tất êm xuôi nhưng chưa chắc gì phút cuối đã được gặp thân nhân, tỷ như Ban Giám Thị thông báo ra khu thăm nuôi rằng, trong hai tháng qua, phạm nhân A đã vi phạm nội quy nên Ban Giám Thị đã quyết định cấm thăm kỳ này...
Trong lần thăm đầu, dù sao Vĩnh đã được suôn sẻ mọi bề, điều ấy có nghĩa là Vĩnh đã được ra gặp thân nhân vào lúc hai rưỡi trưa ngày 22 tháng 12 năm 1978. Quang cảnh khu thăm nơi đây cũng chẳng khác mấy với quang cảnh khu thăm của An Dưỡng và Suối Máu. Cũng từng đó thủ tục tập họp, báo cáo nhân số, giở nón chào kính... Trong phòng thăm, hai bên người thăm lẫn người được thăm, đều phải ngồi vào một dãy bàn có mặt bàn rộng đến độ vói tay hết sức cũng chẳng chạm được tay nhau. Đã thế, đôi bên còn phải ngồi thăm hỏi nhau trước đôi mắt cú vọ của tên cán bộ trực. Hai mươi phút thăm qua cái vèo. Người về nước mắt đầm đìa, người quay trở lại trại tù lòng cũng nặng như những bao tải quà kéo lê trên đất!
Lúc trưa tập họp ra khu thăm mọi người đi đều có hàng có lớp, bây giờ trở về, dù bực mình tới đâu, tên công an đi theo cũng không làm cách nào khác hơn được. Kẻ thì đi trước, người đi sau; kẻ ngồi lại thở dốc bên những bao quà đồ sộ, người gánh chạy nhanh đến độ tên công an chỉ sợ hắn chạy luôn vào khu rừng khoai mì chập chùng hai bên đường... Kỳ thăm này Vĩnh được khá nhiều đồ tiếp tế. Một bao tải đầy mì vắt và bánh mì khô. Bao tải kia đựng đủ thứ đồ khô. Đã vậy, Vĩnh còn phải kéo thêm một cái làn có đủ loại chai lọ đựng mắm đựng tương, đựng chao đựng mỡ... Với từng đó quà, sức gì Vĩnh gánh nổi! Thế nên quang gánh đem theo Vĩnh đều cho người khác mượn. Anh áp dụng chiến thuật kéo lê từng chặng. Cứ kéo bao số một chừng hai mươi thước anh lại trở lại kéo bao số hai. Hết hai bao lại kéo tới cái làn. Với lối kéo này rất dễ làm cho thằng công an đi theo lộn tiết lên đầu, nhưng không kéo như thế làm sao giải quyết được vấn đề? Sau mấy lần cự nự, cuối cùng tên công an bỏ mặc Vĩnh trên đường. Nó quầy quả đi theo những người phía trước - những người ấy có kẻ đã bỏ Vĩnh xa đến mấy trăm thước.
Vừa đi vừa kéo, Vĩnh vừa cố gắng quan sát hai bên đường. Anh thấy vườn khoai mì ở đây mênh mông bát ngát không thua gì vườn khoai mì trên trại An Dưỡng. Nếu mình lẩn vào đây, Vĩnh chợt nghĩ, thì liệu chúng nó có tìm ra mình không? Thế rồi Vĩnh lại nghĩ tiếp. Nhưng lẩn vào đây rồi mình sẽ làm được gì nữa? Liệu sức mình ngày nay sống nổi không nếu trải qua một đêm ngủ bờ ngủ bụi dưới gió núi mưa bưng? Một người bạn tù già kéo bao quà của ông ta vào lề đường ngồi thở dốc tưởng như một người sắp hết hơi. Vĩnh chợt thấy đau nhói trong tim óc. Ta hơn gì người bạn già kia!? Vài chục cân quà kéo không muốn nổi còn nói chi đến chuyện nghìn dặm ra đi!
Đoạn đường từ khu thăm vào đến trại quãng một cây số. Lết lê trên quãng đường non tiếng đồng hồ, rốt cuộc Vĩnh cũng về hội trường - nơi phải bày ra mọi thứ cho cuộc khám xét tỉ mỉ - với đôi ba tay già lão bệnh hoạn khác.
Như mọi người, Vĩnh bày tất cả mọi thứ lên những hàng băng ghế để cho trật tự có cán bộ đi theo đến khám. Ngoài gạo là đồ "quốc cấm" và đã bị chận giữ ngay ngoài khu thăm, kỳ dư hầu như tù được nhận tất cả. Chỉ có một món duy nhất tù trại Hàm Tân luôn luôn thấp thỏm sợ mất là món cà phê. Dù rằng nội quy không có mục cấm đoán món cà phê, nhưng trên thực tế cà phê thường bị cán bộ tịch thu. Đúng ra, gần đây việc tịch thu hoặc không tịch thu cà phê được cán bộ thả nổi; điều ấy có nghĩa là tùy lượng cà phê tích trữ dùng cho các cán bộ giám thị còn nhiều hay ít. Nếu lượng cà phê của chúng đã vơi, chúng sẽ ra lệnh cho bọn trật tự khám xét quà cáp nơi hội trường thẳng tay tịch thu với lý do cà phê là nguồn gốc của mọi sự tụ tập, bàn tán chuyện phản động và trốn trại. Khi nào lượng cà phê tịch thu đã đủ dùng, chúng lại cho tù được phép nhận.
Số Vĩnh hơi xui. Hôm nay nhằm ngày các quan giám thị cần cà phê nên một cân cà phê của Vĩnh được cách mạng chiếu cố và quốc hữu hóa tại chỗ! Sự mệt nhọc quá đáng khiến Vĩnh không còn bụng dạ đâu để mà tiếc của. Anh thu đồ thật nhanh vào bao bị và khởi sự kéo từng bao một về phòng.
Giờ lao động trại vắng tanh. Bước vào nhà, Vĩnh chỉ thấy một hai tay ốm bệnh nằm nghỉ. Dù sao họ không quên lên tiếng thăm hỏi Vĩnh một cách thân mật hơn ngày thường, và kết thúc mấy câu hỏi thăm bâng quơ là câu: Có bi nào xiện xiện làm một bi chơi?
Rồi như mọi người được thăm, Vĩnh lần lượt mở tất cả mọi thứ đồ ăn thức uống bày ra sạp. Đồ khô bỏ vào một bao. Tất cả những đồ ăn đã nấu chín đều bỏ vào nồi hoặc chia ra một ít phần nhỏ để sẵn sàng đem biếu một số bạn bè lúc họ đi lao động về. Ngoài đám bạn ở cùng tổ cùng đội ăn chung với nhau, Vĩnh còn một số bạn bè khác không thể không nhớ đến. Người đầu tiên phải nhớ là Vũ Duy Báu, cựu phó quận hành chánh hiện ở bên nhà 4. Anh là người đã giúp đỡ và chia xẻ cho Vĩnh thật nhiều thứ kể cả một tình bạn chân thành... Lại còn mấy việc rắc rối khác nữa Vĩnh cũng phải lo toan, giả dụ những món đồ của anh Khoan do gia đình anh ta nhờ gia đình Vĩnh chuyển vào. Anh ở mãi nhà 11 gần ban y tế. Chuyển được cho anh mấy đòn bánh tét và ký tôm khô này cũng ná thở!
Sửa soạn đâu vào đó xong, Vĩnh vòng ra sau dãy nhà nhóm bếp và hâm lại tất cả những món ăn để sửa soạn một bữa ăn linh đình chung với các bạn lúc họ đi lao động về. Khi việc nấu nướng đã xong, Vĩnh khoan khoái trở về chỗ nằm hút thuốc vặt và trò chuyện với mấy người cũng vừa được thăm như anh chiều hôm nay.
Nhà 5 hôm nay có hai người nữa được thăm. Luật sư Lê Quốc Việt và bác sỹ Anh. Hai ông này đều giới trí thức khoa bảng nhưng tính tình khác nhau một trời một vực.
Ông Anh trước kia là thiếu tá y sỹ. Ông ở Hàm Tân trước bọn Vĩnh. Hơn nửa năm trước, ông đã mất đi cái công việc nhàn nhã là làm y sỹ chữa bệnh cho tù nơi đây để trở về đội đi lao động chân tay như mọi người. Lần thăm hôm nay là lần thăm "ân xá" của ông sau hơn nửa năm ông bị cấm thăm. Chuyện cấm thăm của bác sỹ Anh không vì ông trốn trại, cũng chẳng vì ông vi phạm nội quy; ông bị cấm thăm vì ông đã bợp tai cô con gái cưng của ông ngoài khu thăm và nhất định từ chối không chấp nhận ông con rể cách mạng. Số là, chả hiểu ở nhà bàn khôn tính dại ra sao, cô con gái rượu của ông đã đồng ý lấy một anh thượng úy Việt cộng để noi cái gương nàng Kiều bán mình chuộc cha. Một ngày đẹp trời, cô con gái dẫn chồng lên thăm bố. Sau màn giới thiệu, ông bố trợn trắng con mắt ngó ông thượng úy của tân chế độ mắt trắng môi thâm đang ngồi cạnh con gái mình. Ông bố vội vàng đứng lên, tiện tay nựng nhẹ vào má cô con gái chí hiếu một cái tát nổ đom đóm và lễ phép nói.
- Từ đây xin bà thượng úy đừng gọi tôi là bố!
Cái tát lịch sử ấy đã đem bác sỹ Anh trở lại trại tức thì. Sau màn "đấu lý" với Ban Giám Thị, ông Anh được đưa vào nằm cachot để tâm sự với chuột, gián, muỗi, cùm và đói khát một thời gian. Sau đó, thành tích tẩy chay con rể cách mạng của ông được đọc trước trại với biện pháp xử lý của cách mạng là cấm thăm một thời gian.
Riêng ông luật sư Việt trẻ trung hơn ông bác sỹ Anh nhưng tính tình thì rất kỹ. Dù anh Huy và Ý ghét cay ghét đắng ông, nhưng Vĩnh vẫn coi ông như một người bạn. Ông cũng tỏ ra thích Vĩnh và hay lân la đến chỗ Vĩnh nằm hút ké điếu thuốc và kiếm chuyện tán gẫu. Dù gì, nói chuyện với ông luật sư Việt, Vĩnh vẫn cảm thấy mình học hỏi được một số điều nơi ông, đặc biệt về phương diện luật pháp, ấy là chưa nói tới việc Vĩnh còn được nghe ông kể về những nhân vật tăm tiếng trong giới luật ông từng tiếp xúc sau 30 tháng Tư. Chẳng hạn việc luật sư Trần Văn Tuyên đã không chịu ra đi mà ở lại vì lý do nào; bà luật sư Đại bị xỉ vả trong cư xá sỹ quan Chí Hòa ra sao; trí thức Sài Gòn đã phải tham dự những cuộc biểu tình hô hoán ủng hộ chế độ ra sao sau ngày mất đất mà trong đó ông ta có tham dự... Luật sư Việt đã gửi hết những chuyện này vào trí nhớ của Vĩnh với một kết luận (và luôn luôn như thế!): Trước họng súng tất cả là bầy cừu!
Những lúc nghe luật sư Việt nói thế, Vĩnh lại đùa.
- Nếu vì lý do gì bầy cừu có súng, ông có sẵn sàng cầm súng để khỏi phải làm cừu nữa không?
Ông Việt nói tỉnh khô.
- Ông đã đọc Mario Puzzo chưa nhỉ? Nhân vật Don Corleone trong The Godfather đã nói với con trai thế nào về khả năng của một luật sư nhỉ? -... con đừng quên, với cái cặp dưới nách, một thằng luật sư nó có thể đánh cướp một món hàng mà dù con có cả một tiểu đoàn trang bị súng ống ngập tới răng chưa hẳn đã làm nổi... Nói tới đây luật sư Việt lại cười cười. Trong công cuộc cướp lại Tự Do, chả nhẽ ông chỉ muốn tôi cầm một khẩu súng như mọi người lính khác trong cùng một tiểu đoàn?
Biết có nói gì đi nữa cũng khó mà cãi lại một... thầy cãi, do đó Vĩnh cũng chỉ cười cười với ông ta và đó cũng chính là lý do ông luật sư Việt không thể nói chuyện với ai khác ngoài Vĩnh! Tệ hơn, khi ông kẹt hạt muối cục đường, ông Việt cũng không thể chạy đâu ra ngoại trừ nơi Vĩnh. Sở dĩ như vậy vì ông Việt là người trước sau như một, trung thành tuyệt đối với khẩu hiệu Tâm Tam Vô y như một số mấy ông tá già ở trại Suối Máu: Vô chung chạ, vô mời mọc và vô chia xẻ! Điều ấy có nghĩa là "tới bữa xoay đầu vào vách ngồi nhai một mình", và cũng có nghĩa là "những món gia đình cung cấp cho ta, ta có quyền hưởng đủ 101 phần trăm!".
Một khi những người vừa được thăm xúm lại hút thuốc và trò chuyện, thì câu chuyện dứt khoát sẽ xoay quanh những tin tức mà cá nhân đã thu thập được. Mỗi người một tin, nhưng nguồn tin phong phú nhất dù sao vẫn xuất phát từ ông luật sư Việt. Theo ông Việt, tình hình biên giới Hoa-Việt rất căng thẳng. Riêng bọn Pon-pot thường xuyên vượt biên giới tấn công vào các khu kinh tế mới và nhiều lúc đã ra tay tàn sát không chừa cả chó mèo. Dân chúng trước đây bị đày đi kinh tế mới, giờ lũ lượt kéo nhau về Sài Gòn và nằm la liệt trên các lề đường. Cũng có những lời bàn tán của dân Sài Gòn, theo đó thế nào Hà Nội cũng phải đổ quân sang chiếm đóng Miên nếu muốn vãn hồi được tình hình biên giới. Từ sự kiện này, người ta đã nghi ngờ rằng các vụ tàn sát người Việt Nam nơi các vùng kinh tế mới biên giới chưa chắc gì đã do bọn đồ tể Pon-Pot gây ra, mà tác giả lại rất có thể là chính bọn cán binh CSVN, mục đích tạo ra một cái cớ để sửa soạn dư luận cho một cuộc tiến chiếm Miên.
Hết chuyện chiến sự, ông Việt lại xoay sang chuyện tù. Ông nói gia đình ông cho biết tù Chí Hòa mấy lúc gần đây được di chuyển đi rất nhiều. Ngày nào cũng có dăm ba chuyến Molotova chở tù ra khỏi khám lớn và đi về nhiều phương hướng khác nhau. Trại Hàm Tân rất có thể trong tương lai rất ngắn sẽ tiếp nhận một số tù nữa. Riêng cái tin này thì Vĩnh đã nghe Nguyễn Tú Cường nói từ lâu, đến nay vẫn chưa thấy gì lạ.
Trong lúc mấy người ngồi nói chuyện thì ngoài sân anh em tù lao động đã bắt đầu trở về. Vuông sân trống và rộng mênh mông mỗi lúc mỗi đông người từ ngoài kéo vào. Vĩnh vội vàng xách cái bao cát bên trong để hai đòn bánh tét, nửa ký tôm khô, mấy viên thuốc cảm và một cây kem đánh răng của anh Khoan lên. Vĩnh cẩn thận bước qua cửa, ngó trước ngó sau để phòng trật tự rồi chuồn ra ngoài sân. Vĩnh đứng canh chừng đội 51 mới vào tới cổng trại. Vĩnh bám sát tức thì, nhưng khi đội về tới sát hàng rào phòng 11, Vĩnh mới xáp lại được gần anh Khoan và trao cái bao cát cho anh ta.
Khi trở về phòng thì anh em đã chia cơm chia canh xong. Rồi thì giờ điểm danh đến, tù lại hàng hai lần lượt chui vào chuồng. Cửa khóa. Trong cái phòng chật ních và đầy mùi ẩm mốc, mùi mồ hôi, mùi phân người bốc lên; lờ mờ dưới ánh điện vàng cạch yếu ớt, bọn tù ở tất cả các nơi bắt đầu ngồi nhai khẩu phần của mình.
Đến ngày hôm nay thì Vĩnh đã có thể khẳng định rằng khẩu phần ở trại Hàm Tân tệ nhất so với các trại mà Vĩnh đã đi qua. Nơi đây chỉ chiều thứ Bảy được phát mỗi người hai chén bo bo, còn được gọi là Cao Lương theo mỹ từ cộng sản. Những ngày khác khẩu phần duy nhất là mỗi bữa tù được phát một chén đầy khoai mì lát nấu nhừ. Khoai mì này là loại khoai già, được xắt cả vỏ và phơi khô lâu ngày. Vì để cả vỏ, và lại được phơi khô, do đó khi nấu lên khoai mì mang một màu tím than quắt queo như đống cứt chó bị dầm mưa dãi nắng nhiều ngày với một mùi vị vừa hôi mốc vừa nhầm nhậm đắng như có lộn một hai vị thuốc Bắc. Được phát kèm với bát khoai mì ân huệ của bác và đảng ấy là ít cọng rau muống, hoặc một tí bí ngô, hoặc một tí củ cải kho nước muối. Tất cả sự dinh dưỡng của chế độ lao tù nơi đây chỉ có thế và có thế!
Người không được thăm nuôi hay chưa được thăm nuôi, hoặc giả không có bạn bè được thăm, ngày này qua ngày khác chỉ được nhai từng đó thứ và nuốt vào bụng từng đó thứ. Riêng đám Vĩnh chiều nay phải khác hơn nhiều! Bữa tiệc bày ra chiếm hết ba bốn chỗ nằm. Vì theo đúng truyền thống của đội 17 gần đây, ai được thăm đều có nghĩa vụ chia xẻ, ít nhất đối với những anh em trong cùng tổ. Do đó cả tổ không ai từ chối mỗi khi có dịp đụng chén đụng đũa này. Đó là màn ăn mặn. Màn thứ hai luôn luôn phải là màn trà nước (có tí bánh kẹo càng tốt) và thuốc lá thuốc lào. Màn này được mở rộng rãi hơn để đón tiếp cả những người sơ nhất nằm quanh chỗ mình. Tuy nhiên khi tới màn này thì Vĩnh buộc phải rút về chỗ nằm để mặc anh em muốn làm gì thì làm. Một phần để tránh bị chửi bới (bọn Vĩnh hiện đang nằm tầng trên) nếu nhỡ có người sơ sẩy đổ nước điếu xuống tầng dưới; một phần Vĩnh muốn tránh chuyện bị cật vấn những tin tức mà chính anh cũng chẳng biết hơn ai. Nhưng dù cho có về chỗ nằm, cuối cùng anh Huy cũng mò tới nằm bên cạnh. Vĩnh sửa soạn tinh thần để trả lời những câu "phỏng vấn" của anh, nhưng ngược với dự đoán của Vĩnh, anh Huy không hỏi gì về những tin tức bên ngoài xã hội cả. Anh chỉ nói nhỏ với Vĩnh một chuyện.
- Khi chiều đi lao động, quản giáo gọi tôi vào nhà lô làm việc. Hắn hỏi lung tung. Từ chuyện đám Hòa Danh Tuyến hòa nhạc vàng mỗi đêm, đến việc Dũng và Thương vẫn ăn cơm chung với nhau, tuy nhiên điều làm tôi lưu ý nhất là nó hỏi về ông. Nó nói nghe anh em bảo ông giỏi nhạc lắm mà tại sao không hề thấy ông đàn địch ca hát với đám Hòa Danh Tuyến bao giờ. Nó còn hỏi có phải ông là sỹ quan chiến tranh chính trị không?
- Vậy anh trả lời sao?
- Tôi chỉ nói mỗi một điều. Một người ho lao như anh Vĩnh, lại không có cả khu cách ly mà nằm nghỉ ngơi mà vẫn phải đi lao động như mọi người thì chẳng còn thơ nhạc nào quyến rũ được anh ấy nữa cả. Riêng việc anh ấy có phải là sỹ quan CTCT hay không thì tôi hoàn toàn không biết. Đó là sự thật!
Vĩnh không khỏi không nghĩ ngợi. Anh nằm nhớ lại những lần quản giáo Phú kêu anh vào nhà lô nói chuyện sách báo, rồi có lần ban giám thị trại kêu anh lên văn phòng làm việc cũng hỏi những câu chuyện bâng quơ như thế về một vài người khác. Tụi nó tính cái chuyện khỉ gì đây? Vĩnh tự hỏi và chưa nghĩ ra câu giải đáp.
Giọng anh Huy lại nổi lên. Mấy ngày nay tôi thấy đám me-xừ Hòa và Tuyến bắt đầu không ăn cơm với nhau nữa. Mấy cu cậu cũng đều đã lần lượt bị giám thị kêu làm việc...
Tự dưng Vĩnh buột miệng.
- Coi chừng bị ly gián đấy!
Anh Huy gật đầu liền.
- Đúng! Mục đích tôi nói chuyện với ông là để báo cho ông biết mà bình tĩnh. Dù ngày mai nó kêu ông lên để hỏi về tôi, hoặc ngày mốt nó kêu Điểu lên để hỏi về Ý...
Vĩnh ngồi lên sửa soạn một điếu thuốc. Anh nhìn anh Huy và cương quyết.
- Tụi mình tan sòng thế nào được. Thôi làm bi thuốc cái đã!
Vừa lúc ấy một tiếng hét vang lên từ phía dưới. Tiếp theo là một lon nước hắt ngược lên trên. Vĩnh nhìn sang chỗ luật sư Việt nằm cách anh bốn người. Việt bị ướt hết chăn mùng mền vì lon nước ở dưới hắt lên. Tuy nhiên, hình như anh ta không bận tâm lắm chuyện bị hắt nước. Việt đang lúng túng với một mớ lon cóng ngay đầu chỗ nằm của ông ta. Người bên dưới đã thò đầu lên. Vĩnh nhận ra ông Mão VNTT. Ông thò đầu lên với nét mặt thật tức giận. Ông chửi đổng.
- Mẹ tiên sư có thì đổ vào họng hết đi. Nước mắm nước muối sao đổ lên đầu người ta!?
Ai chứ ông Mão và ông Việt cãi nhau thì cả phòng này đã chán nghe rồi. Một anh già và một anh xồn xồn quanh năm cãi nhau vì những chuyện thật trẻ con. Đã có lần hai vị suýt tí nữa thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay nhau. Hôm nay, chả hiểu dấm dúi san qua xẻ lại thế nào, ông luật sư Việt ở tầng trên đánh đổ nước mắm xuống đầu ông Mão ở tầng dưới. Khu Vĩnh nằm mọi người đều hồi hộp chờ nghe hai ông đấu lý với nhau. Nhưng có lẽ còn quá bận bịu với mấy lọ nước mắm và mấy keo chao đựng mỡ, ông Việt cứ lờ đi trước những lời xỉa xói của ông Mão. Vĩnh nằm nghĩ ngợi vẩn vơ, thỉnh thoảng nhìn về phía ông Việt và không khỏi buồn cười lúc thấy ông ta quẹt tay trên sạp gỗ rồi đưa ngón tay lên miệng mút. Có lẽ một giọt nước mắm nào đó vừa rơi xuống sạp. Bỗng dưng Vĩnh sực nhớ hồi chiều lúc anh đem thức ăn ra sau bếp hâm lại. Ông Việt cũng đem hâm vài món của ông. Trong lúc hâm thức ăn, thỉnh thoảng ông lại cầm lên một keo chao đựng mỡ, múc ra một thìa nhỏ, đảo mắt ngó quanh một vòng rồi húp một cái chụt. Thấy ông húp những thìa mỡ sống ngon lành làm Vĩnh đã thầm bái phục trong lòng. Giờ thấy ông lại quẹt một giọt nước mắm rơi trên sạp và đưa lên miệng mút, Vĩnh đã hiểu ra nguyên do vì đâu anh Huy và Ý lại ghét ông thậm tệ đến thế! 

62 Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh - Chương 62

Chương 62
Đúng sáng ngày 25 tháng 12 năm 1978, trại tù Hàm Tân xảy ra một cuộc tổng biên chế. Những dãy nhà tù trước đây còn nhiều chỗ trống đều bị dồn cho đủ số người quy định. Người nhà này bị lôi qua nhà khác, đội nọ bị đổi qua đội kia... Thậm chí có một số được điều qua phân trại B và một số từ phân trại B lại được đưa về phân trại A. Dãy nhà 1, dãy duy nhất nằm lẻ loi, sát ngay cổng trại và không có hàng rào vây quanh, chỗ ngủ cho đám trật tự và một số hình sự thân tín của Ban Giám Thị, cũng có một số bị lôi đi và một số được đưa đến. Nói tóm đây là một cuộc cải tổ nội bộ quy mô nhất từ trước đến nay.
Tuy nhiên, một điểm đặc biệt đáng ghi nhận là những đội thuộc khu 1 và 2 dường như không có gì thay đổi quan trọng. Chỉ một vài người bị lôi đi và một vài người khác được bổ sung vào. Căn bản là đâu vẫn nằm yên đấy! Sau khi ổn định nơi ăn chốn ở, bọn giám thị cho tất cả nghỉ luôn lao động buổi chiều và lên hội trường nghe giám thị trực nói chuyện. Ngược hẳn với lối nói mập mờ của bọn quân quản, bọn công an thường nói thẳng thừng với bọn tù về những diễn biến sẽ xảy ra mà chúng xét rằng cần phải có một thông báo cụ thể. Giả dụ chúng thẳng thắn gọi tù là tù, là can phạm; chúng không mập mờ gọi tù là cải tạo viên như bọn quân quản trước đây. Cũng thế, hôm nay chúng thẳng thắn tuyên bố rằng, sở dĩ chuyện biên chế lại các nhà đội là vì trại cần một số phòng cho một số đông can phạm các nơi sẽ gửi đến nay mai. Lời tuyên bố của tên giám thị trực làm cho mọi người đều thấy rằng những tin đồn từ trước đến nay quả không phải là vô căn cứ. Và Vĩnh phải công nhận cái tin Nguyễn Tú Cường cho cả tháng trước đây hoặc của Lê Quốc Việt mới hai ba ngày trước không phải là tin thất thiệt.
Dù trải qua một ngày xáo trộn, và lỗ tai mọi người đều đã nghe đủ lời răn đe của tên giám thị trực về cái gọi là "cấm mọi tụ tập làm việc tôn giáo mê tín dị đoan...", nhưng lễ Giáng Sinh vẫn là lễ Giáng Sinh, một cái lễ mà tinh thần của nó gần như đã vượt ra ngoài phạm vi hạn hẹp của một tôn giáo, mà đã biến thành một biểu tượng cho sự yên ổn tinh thần, sự cứu rỗi chung cho con người. Vì lẽ đó, hầu như không tên tù nào ngày hôm nay lại không để lòng hướng về lễ Giáng Sinh.
Riêng với những anh em công giáo, ngay sau khi trở về nhà, họ đã tái liên lạc với nhau để chia công tác tổ chức Lễ Giáng Sinh dưới nhiều hình thức khác nhau tùy theo điều kiện hiện tại. Nói chung, tất cả đều tìm cách xưng tội và dự "lễ đi". Kẻ lo nấu nướng một vài món ăn đặc biệt để sẵn trong phòng, khi chiều xuống bị lùa vào chuồng, họ sẽ tụ tập ăn mừng lễ với nhau.
Trong khu 2 (nhà 4 và 5) không có linh mục, nhưng bên khu 3 (nhà 6 và 7) có cha Bộ. Mặc dù ai cũng biết trong thời điểm như thế này mấy linh mục bị theo dõi sát nhất, nhưng các cha vẫn rất khôn ngoan để thực hiện được sứ mệnh linh mục của họ. Sau màn móc nối qua lại của anh Huy, một số chừng hai mươi anh em công giáo của hai nhà 4 và 5 kéo ra sau bếp nhà 5, sát dãy cầu tiêu, tản mát mỗi người một nơi nhưng ai cũng hướng về dãy hàng rào bên nhà 6. Bên ấy, cha Bộ đang đứng chờ mọi người một cách kiên nhẫn. Khi anh Huy nói xong vài điều với anh em về cách thức xưng tội tập thể, anh quay sang ra dấu cho cha Bộ biết. Bên kia hàng rào, nét mặt vị linh mục như nghiêm hẳn lại. Ông thầm thì đọc lời giải tội và để kết thúc, ông giơ tay làm một dấu Thánh Giá hướng về phía những người đứng bên này hàng rào. Sau khi được giải tội tập thể đúng như sự sắp xếp của anh Huy, anh em cứ hai người một đi tới đi lui dọc theo hàng rào. Phía bên kia cha Bộ cũng đi như thế với hai người bạn đi hai bên. Đây là lúc mọi người đang tham dự Thánh Lễ do cha Bộ cử hành phía bên kia hàng rào. Vì để tránh sự nghi ngờ của bọn trật tự và bọn giám thị, các cha "chế" ra phương pháp làm "lễ đi" như thế này.
Rồi thì "lễ đi" cũng chấm dứt. Buổi chiều đã thực sự bắt đầu buông xuống. Việc đi lại chưa cấm hẳn nhưng trên thực tế đã bị hạn chế thật nhiều vào những lúc gần đây. Do vậy, khi đi lao động về, trừ khi có việc phải xuống bệnh xá hoặc đi lãnh cơm lãnh nước dưới bếp chính của trại, anh em chỉ lẩn quẩn trong phạm vi hàng rào của từng khu để tránh phiền phức bị trật tự nghi ngờ theo dõi hoặc bị giám thị trại chận hỏi. Vì lý do ấy, sau khi "lễ đi" chấm dứt bọn Vĩnh cũng chẳng ra sân trại làm gì. Anh em trở lại chỗ nằm lôi ra những cái gì có thể nấu ăn được đem ra sau bếp nhóm lửa nấu nướng. Để ăn mừng ngày Giáng Sinh trong tù, nếu là người đã được thăm nuôi thì sẽ có được một nồi mì, hoặc nui tương đối ngon lành với đủ gia vị như mỡ, nước mắm, hành khô, bột ngọt, tiêu ớt. Nếu tệ hơn thì có nồi bột Bích Chi quấy chung với mấy cục đường làm chè. Bằng nếu là con bà phước, hoặc lâu rồi không được thăm nuôi, người muốn ăn mừng lễ chẳng còn cách nào khác hơn là đem đổ phần khoai mì được cấp phát của mình vào nồi, xin xỏ anh em thêm một vài vắt mì khô, một chút nước mắm để có được một nồi xà bần tương đối đặc biệt hơn mọi ngày.
Riêng đám Vĩnh vì anh mới được thăm, do đó ăn uống có vẻ xôm trò. Điểu và Dương kiếm củi, anh Huy nhóm lửa, Cường sai vặt, Ý và Vĩnh lo nấu. Chỉ mười lăm phút sau một nồi mì vĩ đại với đầy đủ gia vị thơm phức đã hoàn tất. Kèm với nồi mì còn một nồi đậu xanh nấu với đường cát... Anh Huy vội vàng lấy lon cóng múc ra một ít đem biếu những nơi cần biếu, đặc biệt là các cha ở các dãy nhà khác. Sau đó tất cả được đem vào đặt nơi chỗ nằm chờ giờ tập họp.
Sau khi vào chuồng, trong lúc ngồi ăn với nhau, bọn Vĩnh mới có thì giờ bàn đến những thay đổi trong ngày. Đối với đội 17, điều thay đổi quan trọng nhất là việc đội trưởng Đặng Xuân Hùng đã được điều sang làm đội trưởng đội khác. Sự ra đi của Hùng đã khiến anh em thấy lời nói của Hùng quả "rất có trọng lượng" đối với Ban Giám Thị. Chính Hùng đã từng than thở: Mai mốt tôi xin đi đội khác. Ở đội này các ông bựa quá, chịu không nổi. Nấn ná mãi ở đây có ngày mang họa lây!
Hùng đi Mai Văn Lễ được đôn lên làm đội trưởng, đồng lúc một nhân vật khác được điều đến làm đội phó. Người đội phó mới này hiện tại chưa ai biết rõ anh ta là gì, thuộc thành phần nào và tính tình ra sao. Chỉ thấy từ chiều đến giờ anh xuất hiện như một người đã khá lớn tuổi, quãng 48 hoặc 49; vóc người cao lớn, dáng đi hơi gù với một nét mặt thật trầm tĩnh...
Trong lúc ăn anh Huy nhìn về phía người đội phó mới (anh ta đang lặng lẽ trải chiếu trên chỗ anh nằm) hỏi bâng quơ.
- Thằng cha ấy chắc to tuổi hơn tôi. Không biết cỡ nào mà lại được đem vào đội này làm đội phó!?
Không ai phụ họa, anh Huy lại tiếp. Tên gì không biết?
Cường với bản tính thích chứng tỏ biết hết mọi chuyện, vừa múc mì ra bát vừa trả lời.
- Thứ dữ đó. Chả tên Thuận. Trước từng là đội trưởng đội 20. Không biết vì lý do gì mất chức một thời gian. Hôm nay lại được điều về đây làm đội phó.
Vĩnh chỉ lắng nghe nhưng không góp ý kiến. Ăn uống xong như mọi người, Vĩnh sắp xếp lại chỗ nằm có một chút thay đổi của mình. Số phận đưa đẩy, ông Trương Hồng điên điên khùng khùng lại một lần nữa đưa đến nằm sát bên Vĩnh. Thấy Vĩnh, hắn chỉ liếc xéo một cái rồi thôi, rồi quay trở lại với bức vách trên đầu chỗ nằm như một người đang ngồi thiền.
Vĩnh nằm nhìn qua cửa sổ có chấn song sắt. Cũng như đêm hôm qua, đêm nay bọn công an gác đêm bồng súng đi tới đi lui và thỉnh thoảng nhìn vào phòng qua các cửa sổ như để quan sát một cái gì. Thực ra chúng chỉ có mục đích khám phá và ngăn chặn kịp thời những ai chúng nghi ngờ đang ngồi tụ tập "làm những việc tôn giáo mê tín dị đoan".
Nơi cửa sổ gần dãy cầu tiêu cuối phòng chợt có một tiếng hét từ ngoài hắt vào.
- Này anh kia! Làm cái gì đấy? Làm việc mê tín hả?
Tiếng một người từ bên trong trả lời.
- Tôi có làm gì đâu! Tôi đang bắt rệp mà!
Giọng bên ngoài hơi hách dịch hơn một chút nữa.
- Bắt rệp ngồi xích ra ngoài. Cấm ngồi quay mặt vào vách như vậy nghe chưa!
Sau câu ra lệnh ấy trong phòng không còn ai nghe thấy gì thêm nữa. Có lẽ tên công an gác đêm đã bỏ đi chỗ khác.
Vĩnh ngồi bật dậy và bắt đầu lôi chăn mùng mền ra. Một ngày bận rộn khiến Vĩnh và hình như nhiều người khác nữa đã quên phéng đi một công tác quan trọng không thể không hoàn tất trước khi đi ngủ. Công tác bắt rệp.
Vào quãng nửa đêm cả trại thình lình thức giấc vì những tiếng động ngoài sân, tiếp theo là tiếng súng nổ ròn rã vang lên khắp nơi. Bọn tù đều chồm tới những khung cửa sổ nhìn ra ngoài. Đang lúc ấy cửa nhà 5 bật mở. Bọn công an súng ống ập vào và bắt tất cả hạ mùng. Kế nữa những người nằm tầng trên phải xuống hết tầng dưới cho một cuộc điểm danh bất thường.
Xưa kia chuyện báo động nửa khuya ở Trảng Lớn hay An Dưỡng là chuyện thường. Tuy nhiên từ ngày về đây, đây là lần đầu tiên xảy ra việc này khiến ai cũng thầm thắc mắc. Chuyện gì đây? Trốn trại chăng? Nhưng trốn bằng cách nào khi ở đây đêm đến đều bị nhốt kín trong phòng như thế này?
Vài phút sau, tù nhà 5 đều ngã ngửa vì quả thực có trốn trại, và cho thấy riêng nhà 5 đã có ba người trốn, một người của đội 45, hai người của đội 13. Bọn giám thị sau khi biết chắc nhà 5 biến mất ba người, chúng cho lệnh các đội trưởng trong nhà đi cùng với chúng tìm xem những người trốn trại đã thoát ra ngoài bằng cách nào. Sau cùng, chúng khám phá ra một khung cửa sổ có những song sắt bị cưa đứt.
Khi bọn giám thị lui gót và trật tự khóa cửa phòng lại như cũ, hầu như cả nhà không còn ai ngủ được. Đám vượt ngục đều là anh em gốc Hòa Hảo, từng được chuyển từ miền Tây lên sau đợt Vĩnh không quá tuần lễ. Thường ngày họ đều là những người lao động rất hăng, ít tỏ lộ những hành vi chống đối và rất đoàn kết với nhau. Không ai ngờ đúng vào nửa đêm ngày 25 rạng ngày 26 của tháng Tây lịch cuối cùng năm 78, họ hè nhau trốn một lượt đến năm người như thế, và nhất là trốn được một cách êm ru.
Tuy không nói ra nhưng ai cũng thầm lo cho thân phận những người trốn trại. Dân vốn gốc ở đây mà nhiều anh còn thất bại, huống chi họ là dân miền Tây, phong thổ địa dư nơi đây đều lạ, làm sao mưu sinh thoát hiểm cho nổi!
Qua cơn lục soát tìm kiếm, điểm danh báo cáo... cả trại lại chìm dần vào sự yên lặng của đêm tối. Quãng ba giờ sáng, một lần nữa Vĩnh và nhiều người đều giật mình thức giấc; lần thức giấc này hoàn toàn không vì những tiếng súng nổ, không vì những tiếng chân chạy mà vì những tiếng huỳnh huỵch vang lên từ phía cổng trại, bò vào tới giữa sân trại và lần lượt tiếng huỳnh huỵch ấy lết tới phía bệnh xá cuối trại. Vĩnh nhìn ra sân qua chấn song sắt. Dù đã quá quen với cái cảnh này, Vĩnh vẫn không khỏi không xúc động. Ngoài sân, một chuỗi năm người bị trói vào nhau như một lũ tù dây, đang lê lết bò trên sân trại. Đi theo họ là một bầy công an súng ống đầy đủ. Xa xa còn có vài anh chàng trật tự đi theo. Riêng bọn công an quả như một bầy chó dữ đang ùa theo cắn xé năm người bị trói. Đoàn người ấy cuối cùng biến mất nơi góc bệnh xá và dãy nhà số 11.
Trong phòng ai cũng bần thần cả người. Thế là bị bắt rồi! Những tiếng thầm thì cứ liên tục nổi lên. Vĩnh không bàn thảo với ai. Anh cứ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Thình lình một cái đầu đen thui xuất hiện phía bên ngoài, la lớn vào trong khiến Vĩnh giật bắn mình.
- Xầm xì gì đấy? Ngủ đi không ông tấn cho cả đám một trận bây giờ!
Mặc tên công an từ ngoài đe dọa, bên trong anh em vẫn xầm xì bàn tán đến hiện tượng vừa xảy ra. Tên công an cáu quá, hét. Các đội trưởng đội phó đâu? Bắt tất cả đi ngủ xem nào!
- Thôi đi ngủ đi. Mấy người ấy chắc chắn bị nhốt cachot hết rồi. Cachot ở đây muỗi và chuột ghê gớm lắm...
Một tiếng nói thầm bên tai Vĩnh làm Vĩnh giật mình ngoái lại. Hóa ra đội phó Nguyễn Văn Thuận đã chồm tới chỗ Vĩnh tự lúc nào để ngó qua cửa sổ chỗ anh nằm. Vĩnh nhún vai không biết trả lời ra sao. Dưới ngọn đèn điện nhợt nhạt, Vĩnh cố bắt thêm đôi ba chục con rệp nữa mới mắc màn và chui vào ngủ trở lại.
Tuy nhiên chẳng cách gì Vĩnh ngủ trở lại được. Những biến cố xảy ra trong ngày Giáng Sinh nơi đây, thực ra chả mới lạ gì, thế mà nó vẫn có một ảnh hưởng trầm trọng đến suy nghĩ của Vĩnh. Vĩnh nằm cố nhớ lại những câu thơ, những đoạn nhạc đã viết ra trong đầu. Lẩm nhẩm một lúc Vĩnh lại thấy phát buồn cười. Ta đang cố làm một việc tuyệt vọng. Thơ nhạc sẽ làm được gì ích lợi trong hoàn cảnh này? Ấy là chưa kể... Bỗng nhiên Vĩnh nhớ đến cặp mắt của tân đội trưởng Mai Văn Lễ khi chiều, lúc hắn ngó anh và Ý quàng vai nhau đi tới đi lui ngoài hàng rào để tham dự cuộc "lễ đi" do cha Bộ làm bên kia hàng rào nhà 6 và 7. Rõ ràng đôi mắt ấy là một đôi mắt theo dõi kín đáo. Và nếu không chủ quan, Vĩnh có thể khẳng định gần đây Lễ đã chiếu những ánh mắt tương tự như thế vào đám ăn cơm chung của Vĩnh rất nhiều lần! Nếu như Vĩnh không "có tật" thì cũng chẳng lấy gì đáng để giật mình, đàng này, Vĩnh tự biết mình có một tật rất nặng, ấy là tật đêm hôm tí toáy làm thơ và viết nhạc trong mùng. Chuyện này những người bạn thân của anh đều rõ và có lên tiếng khuyên can, tuy nhiên, nếu không viết ra để sau đó học thuộc lòng vào bụng, thì chắc chắc Vĩnh sẽ quên hết và không cách gì nhớ nổi. Thế nên dù biết rằng nằm viết ra giấy là điều cực kỳ nguy hiểm nhưng Vĩnh không có cách nào khác hơn.
Dù sao sự cảnh giác của Vĩnh rất cao. Những tháng ngày qua anh thủ thật kỹ, không bao giờ để một dấu tích chữ nghĩa nào trong đồ đạc đầu giường cả. Viết được cái gì ra, Vĩnh cố học thuộc lòng ngay và thủ tiêu vào hầm cầu trước khi ngày rạng. Đã hơn một lần trong lúc đi lao động, đồ đạc của Vĩnh đã bị giám thị và trật tự lôi xuống khám xét. Ở đây, việc khám xét nhiều khi không cần áp dụng đồng loạt như ở dưới chế độ quân quản. Nếu một người bị ăng ten báo cáo lên trật tự hoặc giám thị trại về một việc đáng nghi ngờ nào đó, trong lúc người ấy đi lao động, ở nhà chúng tự động lôi hết đồ đạc xuống "kiểm nghiệm". Sơ hở để lộ một chứng tích của "tư tưởng phản động" chết tươi như chơi!
Hết chuyện thơ chuyện nhạc, chuyện lo âu về đôi mắt của đội trưởng Lễ, Vĩnh lại nhớ đến những tin đồn mà vốn đã nhiều phen anh tích cực muốn loại bỏ nó ra khỏi đầu óc. Những đêm khó ngủ trí óc sẽ là miếng mồi ngon cho móng vuốt của sự hồi tưởng!
Theo tin đồn, tình hình đất nước coi mòi rất lộn xộn. Những chuyện đánh đấm hoặc căng thẳng giữa những vùng biên giới với các nước láng giềng chắc chắn đã là sự thật trăm phần trăm. Thốt nhiên Vĩnh thấy thật hoảng hốt khi tưởng tượng tới cái cảnh một ngày nào Việt Nam tràn ngập hình ảnh "đoàn quân Tàu ô đi, sao mà ốm thế!". Dù chưa hình dung ra sự nguy hại trong việc xung đột giữa bố con chúng nó lần này ra sao, Vĩnh vẫn linh tính thấy rằng mối bang giao giữa hai nước đã thật sự cáo chung. Tự biết mình không phải là một chính trị gia, Vĩnh không lường được (và cũng chẳng có hơi sức đâu mà lường) đến những hậu quả lâu dài sau này; mà, cũng như đa số những người đang nằm trong vòng rào trại tập trung cải tạo, Vĩnh phải ưu tư nhiều đến số phận của ngay chính mình. Điều giản dị trước mắt để ai cũng có thể thấy, rằng nếu không có chiến tranh Việt-Miên hay Hoa-Việt sẽ xảy ra, thì số phận của bọn Rau Răm Ở Lại này tương đối còn có nhiều hy vọng sống còn; bằng ngược lại, Việt Nam một lần nữa rơi vào cơn lốc của máu lửa, kể cả thế giới Tự Do, ai còn có thì giờ đâu mà nhìn ra một cọng rơm trôi dạt giữa giòng nước lũ!
Bỗng dưng Vĩnh lại muốn trỗi dậy để viết một cái gì; đúng hơn, Vĩnh chợt tha thiết thèm được cầm bút viết trên giấy một cái gì. Cảm giác này không khác lắm một người ghiền nặng thèm một hơi thuốc vào lúc nửa đêm trời trở lạnh. Không có thì cũng không chết nhưng chắc chắn nó sẽ ray rứt, sẽ trăn trở và khó mà ru được giấc ngủ.... Trời đất ơi ăn khoai mì nóng quá!
Từ giải phóng vô đây... ăn khoai mì dài dài...
Một tiếng hát cất lớn trong đêm thâu làm Vĩnh giật mình, nhưng anh cũng nhận ra được đó là giọng Nguyễn Công Danh. Danh là tay thường hòa nhạc với đám Hòa, Tuyến. Hắn gầy như con mắm, tính tình cũng ngang như cua. Theo Danh khai báo, hắn từng là chuẩn úy BĐQ, đào ngũ và nghiện ma túy. Hàng ngày đi lao động, buồn miệng hắn lại rú lên mấy câu hát nhại theo bài Miền Đông Đất Đỏ. Giọng hát khởi sự rú lớn rồi nhừa nhựa tan dần như một người hết hơi khiến Vĩnh biết rằng Danh đã hát câu hát ấy trong cơn mơ.
Một cơn gió thật lạnh vào lúc rạng sáng thổi qua cửa sổ. Vĩnh co người lại trong chăn. Thốt nhiên anh tiếc một giấc ngủ ghê gớm. Đêm trường thế là đã sắp hết. Một ngày Giáng Sinh buồn thảm và có khá nhiều biến chuyển đáng nhớ đã qua đi. Nhật ký tù của Vĩnh có thêm một trang gửi vào trong tiềm thức. Hình ảnh của một ngày lao động sắp đến lại đầy tràn trong tâm trí Vĩnh với nỗi buồn thảm và xót xa. Bỗng dưng, một ý nghĩ pha trộn giữa sung sướng mặc cảm tội lỗi nảy ra trong đầu Vĩnh, ấy là Vĩnh thấy mình, ít ra sáng mai đây, vẫn còn được "đỡ khổ" (!) hơn năm anh bạn đạo Hòa Hảo vừa trốn trại thất bại đêm qua. Họ đang ra sao và sẽ ra sao? Hình phạt phải chăng vẫn như thông thường? Có nghĩa là vào trước giờ tập họp đi lao động buổi sáng, trước 1.600 tù ngồi xếp hàng theo từng đội hình trên sân chờ điểm danh xuất trại đi lao động, bọn trật tự sẽ khênh ra trước sân cái bục thuyết trình để trên hội trường. Tên giám thị trực sẽ xuất hiện với một bản án trên tay. Hắn sẽ tuyên đọc bản án trước mọi người với nội dung như sau.
LỆNH BẮT GIAM.
Vào lúc... giờ ngày... tháng... năm..., các can phạm Nguyễn Văn X, Lê Văn Y... hiện ở tại tổ... đội... nhà... đã can tội trốn trại với ý đồ phản động đen tối.
Chiếu nghị quyết của Ban Giám Thị trại cải huấn Hàm Tân, nay tuyên bố:
Các can phạm X và Y sẽ bị:
- Giam hầm tối hai tháng.
- Cấm thăm viếng sáu tháng.
- Cùm hai chân.
- Hạ khẩu phần ăn còn chín cân mỗi tháng.
Ngoài ra, hình phạt trên có thể tăng giảm tùy mức độ ăn năn hay ngoan cố không chịu hối cải của các can phạm.
Ban Trật Tự trại chiếu thi hành lệnh này kể từ ngày ký.
Thay mặt Ban Giám Thị
Trại cải huấn Hàm Tân
Cán bộ giám thị trực.
Ký tên.
Tiếng kẻng báo thức cho Vĩnh biết đã tới giờ anh phải tranh thủ hạ mùng mền thực mau, để có thì giờ bắt giết thêm được mớ rệp nào hay mớ rệp đó!

63 - Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh Chương 63

 
CHƯƠNG 63

ầu tháng Giêng năm 1979, trại Hàm Tân trải qua một cuộc học tập và thảo luận về việc "thủ đô Nam Vang được giải phóng khỏi tay bọn đồ tể Pon-Pot và Ieng-Xary". Trong lần học tập này, Ban Giám Thị trại cũng hân hoan loan báo.
- Việt Nam và Kampuchea là hai nước anh em xã hội chủ nghĩa, vì thế chúng ta không bao giờ được phép để hai nước phải rơi vào tình trạng môi hở răng lạnh. Nhờ đảng, nhờ nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nhờ nhân dân Việt Nam tích cực giúp đỡ, ngày nay nước Kampuchea anh em đã thực sự thoát khỏi bàn tay diệt chủng của bọn đồ tể phản bội Pon-Pot và Ieng-Xary, được hưởng hòa bình tự do no ấm và hạnh phúc thực sự. Cũng như nước ta khi mới giải phóng, nước Kampuchea anh em hiện gặp một số khó khăn mà cơ bản là những khó khăn về kinh tế. Do vậy, trong tình thân ruột thịt thắm thiết, tình láng giềng tối lửa tắt đèn, Đảng nhà nước và nhân dân ta đã quyết định thắt lưng buộc bụng để có cái chi viện trợ giúp nước anh em trong cơn khó khăn. Hạt gạo hạt muối bây giờ ta lại phải cắn làm ba làm tư... Ban Giám Thị trại nêu rõ vấn đề để các anh em phạm nhân đừng lấy làm thắc mắc khi khẩu phần tinh bột của trại ta từ nay sẽ có giảm sút chút ít!...
Tin nhân dân Kampuchea được "thực sự độc lập tự do, ấm no hạnh phúc" bỗng nhiên mờ hẳn đi trước tin khẩu phần tù bị cắt giảm khi ngày Tết ngày nhất vừa tới nơi. Những lời bàn Mao Tôn Cương tha hồ có dịp nổi lên. Và những lời bàn ấy còn nổi lên dữ dội hơn khi vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung cộng tiến quân cấp quân đoàn đánh vào các tỉnh biên giới dưới chiêu bài "dạy cho CSVN một bài học".
Bạch thư tố giác "chính sách bá quyền Trung Quốc và chủ nghĩa Sô-vanh của bọn phản động và phản bội" được Hà Nội ấn hành và tuyên truyền rùm beng đến tận cái xó xỉnh tù Hàm Tân này. Bọn tù một lần nữa được lôi lên hội trường để nghe cán bộ đảng khởi sự tố khổ người anh em Trung quốc vĩ đại, đồng thời cũng là bố nuôi của chúng trong suốt quá trình cuộc chiến tranh ăn cướp miền Nam tự do.
Trong văn chương bình dân Việt Nam có nhiều kiểu chửi thật tuyệt vời, từ chuyện chửi gà chửi qué đến chuyện chửi chó chửi mèo; nhưng có lẽ đây là câu chuyện chửi nghe sướng nhất mà cả nước lần đầu được nghe, ấy là chuyện thằng con Hà Nội chửi bố Trung Quốc. Thôi thì hết xẩy! Thế giới tự do bỗng dưng không tốn một xu teng mà có ngày được cả một tập tài liệu đầy đủ nhất về những cái lươn lẹo, đểu cáng, những cái bất lương, bịp bợm, lưu manh... đã xảy ra trong suốt quá trình cuộc giao du của bọn anh em ruột thịt nhà cộng sản.
Bọn tù, mới đầu nghe cha con chúng nó đánh nhau, rồi chửi nhau, rồi công khai vạch áo cho người xem lưng thì cũng lấy làm khoái. Tuy nhiên nghe riết, nghe cả tuần lễ bắt đầu đâm nhợn. Khi tụi nó khen nhau mình cũng phải nhắm mắt nhắm mũi mà khen để tránh tội phản động. Khi tụi nó chửi nhau mình cũng phải nhắm mắt nhắm mũi mà chửi kẻo mang tội Việt gian!
Nhưng cuộc chửi bới dù có dài đến đâu cũng có lúc phải chấm dứt. Lần lên lớp sau cùng, tên tổng giám thị trại kết luận.
- Đất nước ta mấy mươi năm chịu đựng gian khổ, vừa thoát ra khỏi sự thống trị bạo tàn của bè lũ Mỹ ngụy, cả nước đang như một con bệnh vừa phục hồi và khởi sự bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trên cả hai miền Nam Bắc, thì bọn phong kiến nghìn đời, bọn phản bội chủ nghĩa xã hội, tức bọn bành trướng Bắc Kinh, đã chạy theo lợi nhuận được đế quốc Mỹ chia chác, trở mặt xua quân đánh phá và xâm chiếm lãnh thổ biên giới miền Bắc nước ta. Tội ác của chúng đã phạm với nhân dân ta như lá trên rừng, như nước biển Đông. Mặc dù chúng đã bị quân dân ta quyết liệt đánh đuổi và đã dành lại từng tấc đất quê hương, nhưng thiệt hại chúng để lại đã không phải là nhỏ.
Bọn tù bên dưới đều ngồi phỗng ra nghe cán bộ đảng tả oán. Rồi thì, cũng như lần trước, gần 1.600 tù đều hoảng hốt ra mặt với câu kết luận. Trọng tâm tái thiết và cấp dưỡng hiện nay của chính phủ ta là các cơ sở vật chất bị hư hoại, cũng như đồng bào sống ở các tỉnh biên giới bị bọn bành trướng Bắc Kinh tiến công khiến mất mùa đói kém. Để tích cực đóng góp vào chiến dịch lá lành đùm lá rách của nhà nước đưa ra trong giai đoạn hiện tại, trại ta sẽ nhất trí giảm khẩu phần ăn của mỗi người xuống thêm một chút nữa...
Rốt cuộc, xét cho cùng, số phận tù đúng là "khóc cười theo vận nước nổi trôi". Nhà nước cười mình cũng bị thắt ruột mà nhà nước khóc mình cũng bị buộc bụng.
Bọn tù ai cũng than thở. Mới đầu năm đến nay chưa quá hai tháng mà nhà nước đã cười và khóc hai lần, chả hiểu hết quý đầu nhà nước còn phải cười khóc mấy phen nữa!?
Khi vãn tuồng trời lại đổ mưa tầm tã. Có người đội mưa chạy về phòng, cũng có người tà tà ngồi lại với nhau trong hội trường đợi mưa tạnh. Bên cạnh những cái điếu cày, anh em kẻ thầm thì bàn tán, người cao giọng nói xa nói xôi. Thụy kỳ chung, mọi người từ trẻ đến già, ai cũng lấy làm khôi hài cho chuyện bố con nhà cộng sản Tàu Việt đánh nhau.
Ông Đại móm, người từng giữ chức phó quản đốc trại cải huấn Đà Lạt, thường có lối Kiều lẩy thật duyên dáng trong những lúc đấu láo với bọn trẻ, xà tới hút nhờ điếu thuốc. Sau khi ngửa cổ nhả một hơi khói no nê, ông đảo mắt quan sát một vòng; lúc biết chắc chẳng có tay trật tự hay giám thị nào, ông mới cười khẩy đọc luôn một câu thơ.
Từ trong gian khổ bước ra,
Vươn vai một cái rồi ta... đi vào!
Cả bọn chả hiểu câu thơ ấy ông lượm được ở đâu, hay trong lúc ngồi nghe cán bộ đảng tả oán, ông đã cao hứng sáng tác ra; nhưng trong hoàn cảnh này, bỗng dưng được nghe một ông già chịu chơi đọc một câu thơ mỉa mai chế độ có tầm đại pháo ấy ai cũng thích thú.
Một anh chàng trẻ tuổi cười lên tiếng.
- Khẩu phần bớt nữa chỉ ông Đại mừng!
Ông già Đại lại nhe hai hàm răng toàn lợi của ông ra cho mọi người thưởng lãm, rồi ông cười đáp.
- Đúng đấy. Các cậu còn trẻ cái gì cũng nhai được. Thằng già này dẫu được cách mạng nuôi ăn rất đầy đủ sơn hào hải vị, gan trời trứng trâu, nhưng chắc có ngày chầu ông bà vì bệnh chết đói!
Nghe ông Đại than thở Vĩnh mới sực nhớ ra cái thảm cảnh gần đây của những ông già yếu răng hoặc đã rụng gần hết răng như ông Đại. Thực ra gọi là thảm cảnh cũng không lấy gì làm quá đáng. Từ đầu năm đến nay, chẳng những tù bị giảm khẩu phần tinh bột (còn độ 300 grs mỗi ngày!), mà ngay loại tinh bột cũng bị thay đổi. Trước kia tinh bột chính trại Hàm Tân cấp phát cho tù là khoai mì lát. Và dù ai cũng biết thứ thực phẩm này không ngon lành bổ béo gì, mà còn có thể có mầm mống nguy hại cho đường tiêu hóa, vì nó còn cả vỏ; nhưng trên phương diện nhét cho đầy bụng, thì món khoai mì lát hầm tương đối già trẻ còn có thể tiếp thu được một cách dễ dàng như nhau. Gần đây, món thực phẩm này chỉ còn được cấp phát vào bữa trưa, còn bữa chiều cấp phát ngô (bắp).
Người bạn khi nãy nói đùa rằng khẩu phần càng sút giảm càng làm ông Đại mừng cũng có lý do của anh ta. Ngô, món thực phẩm mới là một món ăn rùng rợn! Bọn tù đều kinh ngạc không hiểu nổi nguồn gốc của những hạt ngô to như đốt ngón tay, cứng như sỏi, mày của nó dai và dày như thứ nylon tốt từ đâu mà ra. Nga? Tiệp Khắc? Ba Lan?... Không ai biết được! Chỉ biết khi những bao ngô được nhận từ kho hậu cần về, anh em trong đội anh nuôi vội vàng đổ hết vào những dãy thùng phuy đặt sau bếp. Họ đổ vôi và nước vào ngâm suốt đêm. Sức nóng hầm của vôi sống có thể làm rục xương một con bò nhưng đã chịu thua trước những hạt ngô của phe xã hội chủ nghĩa! Lúc khẩu phần ngô được phát đến tay bọn tù, nó không phải là những hạt ngô bung mềm mại, mà vẫn cứng như đá và lỳ lợm nằm ngủ trong lớp mày dày như áo giáp. Vì những hạt ngô bung như thế, ngoài bọn trẻ dám ngồi nhẫn nha nhai... cả đêm cho hết khẩu phần, kỳ dư các cụ cỡ ông Đại thì đành phải đầu hàng vô điều kiện. Vô điều kiện!
Vĩnh hút xong mấy điếu thuốc đứng lên nhìn ra trời mưa. Kết thúc một chuỗi ngày nhồi sọ chính trị bằng một chiều mưa lòng bỗng lạnh và trống khôn cùng! Đời sống tuyệt mù khốn quẫn, thụ động và chán chường. Thốt nhiên Vĩnh lại nhớ đến những dặn lòng, những tính toán, những an ủi chính mình từ những ngày đầu tiên đi tù: Ta sẽ trở thành một phóng viên chiến trường hậu chiến! Và cho tới nay Vĩnh đã "làm phóng viên" được gần 45 tháng. Bốn mươi lăm tháng số phận của cả triệu tù nhân như những hòn đá rơi xuống vực sâu, âm u, biền biệt và có cơ mất tích luôn...
Người ra đi thì biệt vô âm tín, người ở lại thì tù tội chung thân. Thốt nhiên một câu thơ của Lưu Vân trôi qua đầu làm Vĩnh cóng lạnh.... Có những người không sinh ra cùng một ngày,
Mà chết cùng một giờ...
Chả nhẽ số phận giống nòi Việt Nam thê thảm đến thế sao?
Vĩnh lại xà vào những đám đông kiếm thêm bi thuốc. Hội trường lúc này đã vơi thêm nhiều người. Những tiểu ban chuyên môn đã bắt đầu làm việc trở lại nơi những dãy bàn cuối hội trường. Vĩnh để ý thấy nhà thơ Ninh Chữ, trưởng ban kiêm luôn nhân viên duy nhất của Ban Thống Kê đang ngồi ghi ghi chép chép trên một đống hồ sơ. Nơi căn phòng bên cánh trái sân khấu, dịch giả kiêm thầy đồ Nguyễn Quốc Hùng, đương kim trưởng ban Ban Trật Tự trại Hàm Tân cũng đang ngồi duyệt xét một đống giấy tờ trên mặt bàn...
Cơn mưa bây giờ đã ngớt. Mới bốn giờ chiều mà trời đã âm u tối. Vĩnh phóng chạy thật nhanh ra ngoài sân. Anh men theo hàng hiên hội trường, rồi men theo hàng hiên bếp trại. Gặp một đôi người quen mặt đứng trong bếp nhìn ra. Ông trung tá Sâm - người giờ đây đã phải đi nạng vì chân trái của ông đã hoàn toàn bại xụi - thấy Vĩnh kêu ơi ới. Vĩnh trả lời cho qua chuyện và hứa sẽ cho ông một ít mỡ rồi phóng băng qua vuông sân chạy về nhà.
Vừa chui vào chỗ nằm Vĩnh đã nhận ngay ra vẻ xôn xao nơi một số anh em. Anh Huy xà tới bên Vĩnh, nói ngay.
- Cha Bộ bị bắt rồi!
Vĩnh nhìn anh, hỏi lại.
- Bị bắt là sao?
- Nằm cachot rồi!
Quả thực lòng Vĩnh không xúc động lắm khi nghe tin cha Bộ bị tụi nó tống vào cachot. Nhưng anh Huy thì khác. Anh có lẽ là người ở vào thế hệ cuối cùng của những người công giáo Việt Nam xem cha là Chúa. Đụng tới cha là đụng tới Chúa. Cái tinh thần này một phần đã tạo thành cá tính đặc thù của những người công giáo Việt Nam, đặc biệt ở những người công giáo di cư năm 1954.
Tuy thế Vĩnh vẫn hỏi để biết cho rõ chuyện.
- Mà sao vậy? Khi nãy tôi mới gặp ngài ngồi trên hội trường mà!?
- Thì vậy. Nhưng sau khi tan hàng về phòng, Trật Tự đem lệnh Giám Thị xuống còng dẫn nhốt cachot rồi.
Câu chuyện được anh Huy tiếp tục kể, theo đó Vĩnh được biết rằng cha Bộ bị nhốt cachot vì ngài đã hơi quá lạc quan trước viễn tượng sụp đổ của Hà Nội. Trong lúc đi lao động, ngài đã công khai tuyên bố với anh em cùng đội rằng, 30 tháng Tư tới đây ngài sẽ về dâng lễ tạ ơn chung cho mọi người tại nhà thờ Bình Triệu. Khổ cho ngài, đội trưởng Minh của ngài, một con chiên ngoan đạo và nghe nói hình như cũng từng một thời ở chủng viện, một chức sắc kỳ cựu của trại, có cái đầu sói bóng lộng, đã vì chức năng đội trưởng mà báo cáo câu nói phản động của vị linh mục lên Ban Giám Thị.
Cha Bộ, liên tiếp mấy ngày qua đã nghỉ lao động và được gọi lên trình diện giám thị trực để trả lời về những câu thẩm cung của cách mạng.Hôm nay cha mới bị cùm vào khu biệt giam do bởi câu xác nhận của cha: Chính tôi đã nói câu ấy!
Vĩnh ngồi lắng nghe anh Huy kể tự sự. Sau cùng anh hằn học kết luận.
- Tôi không ngờ thằng Minh nó lại Judah như thế! Đến cha mà nó cũng...
Rồi thì trước khi bỏ đi, anh nói câu cuối. Chúng nó khám đồ của cha lấy mất hộp đựng Mình Thánh Chúa rồi. Tuần trước tôi mới chuyển cho cha gần một trăm bánh thánh. Cha giữ giờ mất cả. Khổ quá!
Vĩnh mệt mỏi ngả người xuống sạp gỗ. Vào giờ này anh em đã bắt đầu sửa soạn nồi niêu và những thực phẩm cho việc nấu nướng ban chiều. Những người "nghèo" thì nằm khoèo chờ khẩu phần ngô bung xã hội chủ nghĩa hiện đã có cái tên mới là ngô "Vỏ Nguyên Giáp", tức ngô còn nguyên lớp mày cứng như cái áo giáp bọc ngoài.
Chiều nay Vĩnh chẳng lý gì tới chuyện bếp núc. Tất cả giao khoán cho đám Ý, Huy và Điểu lo. Anh nằm nghĩ ngợi với một cái đầu trống rỗng. Hình ảnh ông luật sư Lê Quốc Việt vẫn như mọi chiều xuất hiện trong tầm nhìn của Vĩnh. Ông đang rón rén chiết ra khỏi keo chao tí mỡ, rón rén múc ra khỏi lọ tí mắm ruốc, rón rén moi ra khỏi bao vắt mì rồi rón rén bưng nồi chạy ra sau bếp với mấy thanh củi nhỏ kẹp nơi nách. Hoặc hình ảnh của đội trưởng Lễ. Trong lúc ngồi sắp xếp những cái cần cho một cuộc nấu nướng, đôi mắt hắn vẫn đảo nhanh chung quanh như sợ có kẻ thình lình đánh vào gáy mình... Cũng nằm nơi đây, trong bóng chiều nhá nhem đang đổ xuống khung cửa sổ còn ướt nước mưa, có lúc Vĩnh nghe thấy những bước chân chạy rầm rập phía ngoài, những tiếng la hét báo động.
- Mưa nữa!
- Chạy!
- Coi chừng đổ cái nồi!
- Kéo mớ củi vào! Kéo mớ củi vào! Ướt hết!
Đó là những tiếng la hét của những người đang tranh thủ thời gian còn lại của buổi chiều để nấu một nồi mì, một nồi nui hay bất cứ cái gì mà họ có thể nấu được, để nhét cho đầy bụng trong bữa ăn tối. Cũng có lúc đầu óc Vĩnh lại trôi dạt về phía hội trường, lại nghe rõ mồn một tiếng tố khổ "người anh em ruột thịt Trung quốc" của tên tổng giám thị. Cũng có lúc Vĩnh nhìn sang phía đối diện với cái đầu tỉnh táo hơn. Anh thấy ông đội phó Thuận, người mà ngày nay Vĩnh đã biết rõ hơn về tiểu sử, rằng ông có bút hiệu Châu Sơn khi soạn sách giáo khoa Việt văn và bút hiệu Thái Vị Thủy khi cao hứng làm thơ. Quả thật ở với nhau một thời gian rồi, ấy thế mà Vĩnh chưa có dịp nào trò chuyện với ông đội phó cả. Ông xuất hiện trong đội 17 này như một người thật cô đơn. Hàng ngày ông lao động vừa phải, hình như pha chút mệt mỏi; từ ngày ông về đây, phải thú nhận ông chưa hề làm một điều gì phật lòng anh em cả. Thế nhưng ông vẫn cô đơn và anh em vẫn chưa ai bắt chuyện tâm tình với ông. Có lẽ đây là sự công hiệu của những cái tin do những người cũ nơi đây bắn qua: Coi chừng, tổ sư bồ đề đấy!
Vĩnh nằm nhìn ông Thuận. Quả trong lòng Vĩnh không hề có tí ác cảm nào với ông. Rất có thể Vĩnh chưa bị đứt tay nên chưa thấy xót? Nhưng Vĩnh biết chắc chắn một điều, đối với ông đội phó ít khi nấu nướng linh tinh, không chơi thân với ai, rất chịu khó đọc sách cách mạng và rất năng ghi chép những gì hay đọc được trong sách, Vĩnh chả hề có một cảm giác e ngại nào. Chưa tiện dịp để mà bắt chuyện với nhau đấy thôi.
Nhớ tháng trước, lúc trại còn cho mượn sách đọc, trưa nào đi lao động về ông Thuận cũng xếp hàng đứng chờ người kéo xe chở sách đi qua để mượn cho bằng được vài cuốn. Đội 17 hình như chỉ có ba người thường mượn sách đọc. Người thứ nhất là ông Thuận. Người thứ hai là anh Huy. Người thứ ba là người điên Trương Hồng. Cũng có đôi lần Vĩnh tự nhủ, muốn đánh cộng sản phải hiểu rõ cộng sản về cả hai mặt tri và hành của chúng. Sống dưới nách chúng tức nghiễm nhiên được hấp thụ kiến thức về sự hành của chúng; còn muốn biết chúng tri cái gì thì không gì bằng siêng đọc sách của chúng viết. Biết thế, nhưng trưa đi lao động về, phải nối đuôi nhau xếp hàng dưới trời nắng, chờ cái xe cải tiến chở đầy sách đi tới trước hàng rào nơi khu mình ở, để ghi tên mượn được quyển sách, vài ba lần khiến Vĩnh phát mệt và đâm chán. Chỉ có ba vị trên của đội 17 là trung thành với việc đọc sách mà thôi. Gần đây, việc xếp hàng mượn sách đã chấm dứt, vì ban giám thị trại đã thông báo rằng: cách mạng cho các anh mượn sách đọc nhằm bồi dưỡng tinh thần các anh về mặt tư tưởng của xã hội mới; nhưng qua theo dõi và nghiên cứu, Ban Giám Thị thấy rằng hầu như những người năng mượn sách không đọc với tinh thần học hỏi, mà đã đọc với tinh thần bới lông tìm vết, tìm những cái sơ hở của các tác giả cách mạng để đặt điều xuyên tạc công kích...
Từ ngày cách mạng hoảng hốt cấm không cho tù đọc cả sách do chính cách mạng viết ra, ông Thuận càng năng ghi chép hơn nữa. Đã nhiều lần Vĩnh dặn lòng sẽ bắt tay anh già xồn xồn này xem anh ta nghiên cứu gì về Mác-Lê mà ghê thế!?
Rồi thì buổi chiều đã thật sự ập xuống. Mưa đã tạnh hẳn. Ngoài sân trại, những người trực lãnh phần ăn cho các đội từ bếp chạy về với những thau ngô vàng au. Bóng những chiếc áo vàng của bọn giám thị có trật tự đi theo đã chập chờn đó đây. Chúng kiểm soát ngoài khu bếp, hò hét vài ba anh tù nấu nướng sai chỗ quy định, hoặc chận hỏi một người mà chúng tình nghi đang tìm cách liên hệ linh tinh với một người khác nhà khác đội ngoài sân.
Tiếng kẻng tắt lửa và tập họp điểm danh đã vang lên. Nồi mì to tướng của đám Vĩnh đã được anh Huy khệ nệ khuân vào đặt ngay chỗ nằm của anh. Vĩnh ngó sang khu nhà 2 và 3. Bên đó họ điểm danh xong và từng cặp từng cặp đang nối đuôi nhau lặng lẽ chui vào chuồng trước nhiều cặp mắt cú vọ của bọn cai tù và trật tự. Một tiếng la lớn ngay ngoài cửa nhà 5 cất lên. Vĩnh nhận ra khuôn mặt quen thuộc của anh chàng trật tự. Anh phóng vào phòng, du người lên tầng trên xem có ai còn nằm nướng hay không, miệng hét inh ỏi.
- Ra hết! Ra hết!Ốm đau gì cũng phải ra điểm danh hết!
Câu hét quen thuộc ấy nghe đã nhàm nhưng chẳng ai mà không tuân theo. Vĩnh rời khỏi bục nằm và nối đuôi anh em ra ngoài vuông sân bên hông phòng...