Chúng tôi đã o đây vào muà Đông năm 78, hơn 10 tháng sau chuyen ve Vĩnh Quang. Trai này tên là Phong Quang, cach thi trấn Lao Cai 10 klicks duong chim baỵ
Trai có cổng lơn, bảng dề " TRAI PHONG QUANG", co tuong cao khoang 4m. Ben trong gồm 2 day nhà gach, chia thanh tung buồng. Moi buồng mot đôi, có bồn nuoc trong pham vi doi.
Chung toi ve đay vào mua Đông 78, lạnh cat da xe thit, "bien chế" vào Doi Van nghe do anh Thươc lam Doi trong, anh Hà Doi pho, tap dzot trinh dien giup vui anh em tù và bon cán búa vào dip Tet 78.
Mờ cac anh em đã tung o Phong Quang tro lai xem cảnh cũ, trong chuyen di tìm xac bố duoc bon CS thong báo đã chet tai Phong Quang, nhung den nay, van chua tìm duoc hài cot !
Please scroll down
Trai da bi bon Trung Cong tan phá trong cuoc chien nam 79 . Cỗng lớn khong còn. Cong vào bay gio là cái lỗ này
SVSQ K4/72 THSQ-QLVNCH
Một căn nhà trong trại
Nơi Sinh Hoạt của những Sĩ Quan Trừ Bị Đồng Đế Nha Trang
Tuesday, November 25, 2008
QUỐC CA HOA KỲ THE STAR-SPANGLED BANNER
Ô kìa bình minh lên Oh, say can you see,
Ánh dương tan dần sương mai By the dawn's early lights
Làm tỏ sáng thêm hy vọng What so proudly we hailed
Rộn ràng thấp thoáng nơi chân trời As the twilight's last
gleaming
Những sao sọc ngời quang vinh Whose broad stripes and bright stars
Đã bao phen cuộc tử sinh Through the perilous fight
Từ đổ nát thê lương điêu tàn O'er the ramparts we watched
Vẫn sừng sững hiên ngang bóng cờ Were so gallantly streaming
Đêm qua đêm pháo sấm sét And the rockets' red glare
Tiếng bom rền vang khắp chốn The bombs bursting in air
Vẫn uy nghi ngọn cờ Gave proof through the night
Vẫn cao vút lòng son sắt That our flag was still there
Dù bao khốn khó luôn kiên gan Oh, say, does that Star-Spangled
Chí lớn tung bay Banner yet wave
Trời tự do miền đất hứa O'er the land of the free
Và quê hương của can trường? And the home of the brave?
NGUYỄN THẾ THĂNG
kbc4648@aol.com
Ô kìa bình minh lên Oh, say can you see,
Ánh dương tan dần sương mai By the dawn's early lights
Làm tỏ sáng thêm hy vọng What so proudly we hailed
Rộn ràng thấp thoáng nơi chân trời As the twilight's last
gleaming
Những sao sọc ngời quang vinh Whose broad stripes and bright stars
Đã bao phen cuộc tử sinh Through the perilous fight
Từ đổ nát thê lương điêu tàn O'er the ramparts we watched
Vẫn sừng sững hiên ngang bóng cờ Were so gallantly streaming
Đêm qua đêm pháo sấm sét And the rockets' red glare
Tiếng bom rền vang khắp chốn The bombs bursting in air
Vẫn uy nghi ngọn cờ Gave proof through the night
Vẫn cao vút lòng son sắt That our flag was still there
Dù bao khốn khó luôn kiên gan Oh, say, does that Star-Spangled
Chí lớn tung bay Banner yet wave
Trời tự do miền đất hứa O'er the land of the free
Và quê hương của can trường? And the home of the brave?
NGUYỄN THẾ THĂNG
kbc4648@aol.com
Sunday, November 23, 2008
KBC Hải Ngoại Kỹ Niệm đệ lục Chu Niên
Nguyệt san KBC Hải Ngoại kỷ niệm đệ lục chu niên
Monday, November 24, 2008
Ban hợp ca binh chủng Hải Quân bước lên sân khấu tại buổi lễ kỷ niệm đệ lục chu niên nguyệt san KBC Hải Ngoại.
Nhà báo Bồ Ðại Kỳ (thứ nhất từ trái) bắt tay cảm ơn Luật Sư Nguyễn Ðỗ Phủ. Bên phải là MC Phạm Ðình Khuông.
Ông Nguyễn Thế Ðỉnh (trái), hội trưởng hội Biệt Ðộng Quân Nam California, trao tấm ngân phiếu ủng hộ $500 cho ông Tô Phạm Thái.
Một người trong ban tổ chức cầm thùng tiền đi xin ủng hộ.
Bài và hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV).- Tối Chủ Nhật vừa qua không phải là ngày Quân Lực VNCH. Vậy mà nhà hàng Paracel Seafood, Westminster, lại đông nghẹt các cựu chiến binh thuộc mọi binh chủng của quân lực này.
Gần 500 người, đa số đều mặc quân phục rất đẹp và mới, đã đến để kỷ niệm một tờ báo, được coi như là của QLVNCH, còn tồn tại sau sáu năm ra đời và cũng để gây quỹ giúp tiếng nói của họ tiếp tục được gióng lên trong tương lai.
Ðó là nguyệt san KBC Hải Ngoại, tờ báo của những người lính một thời chiến đấu cho lý tưởng tự do cho dân tộc Việt Nam.
Trên sân khấu là một tấm bảng với hàng chữ “KBC Hải Ngoại Chào Mừng Quan Khách Kỷ Niệm Ðệ Lục Chu Niên” được treo ngay chính giữa, bên trái là hình một người lính với một cô gái hậu phương, bên phải là hình một người lính trong tư thế chiến đấu với lá cờ VNCH phía sau.
Ngoài ra, hai bìa sân khấu là hai lá quốc kỳ Mỹ và VNCH.
Phía dưới là các quân trang, quân dụng, vũ khí và các bó hoa được trưng bày rất đẹp mắt.
Phía tường bên trái của nhà hàng là một tấm bảng lớn với hàng chữ “Thương lính, yêu lính, đọc và cổ động nguyệt san KBC Hải Ngoại.”
Mở đầu buổi tiệc, ông Tô Phạm Thái, thay mặt Hội Ðồng Quản Trị nguyệt san KBC Hải Ngoại, phát biểu: “Ðây là tờ báo chung của chúng ta, được làm ra để vinh danh các chiến sĩ QLVNCH, để đưa tiếng nói trung thực chống lại sự đầu độc bằng truyền thông của Cộng Sản. Có người nói chúng ta bán nước khi chiến đấu cho miền Nam Việt Nam. Bây giờ thì họ bán nước cho Tàu Cộng. Ðây là tờ báo phát triển cho thế hệ sau thấy sự chiến đấu của cha anh họ là đúng.”
“Nhân dịp này, tôi cũng xin kêu gọi tất cả chúng ta hãy tiếp tục giúp đỡ nguyệt san KBC Hải Ngoại bằng tài chánh, hình ảnh và bài vở để tiếng nói của chúng ta tiếp tục tồn tại. Xin thay mặt Hội Ðồng Quản Trị gởi lời cảm ơn đến tất cả các cơ sở thương mại đăng quảng cáo và các cơ quan truyền thông đã giúp đỡ chúng tôi bấy lâu nay,” ông Thái nói tiếp.
Bà Diệu Chi, trong trang phục Thủy Quân Lục Chiến, chia sẻ: “KBC gợi nhớ hình ảnh sâu đậm nhất trong chiến tranh. KBC là viết tắt của Khu Bưu Chính, là nơi trang trải những suy nghĩ về gia đình và cũng là nơi trao lo lắng cho người thân ngoài chiến tuyến. Ngôi nhà KBC là nơi mỗi người, mỗi nhà từng một thời đi qua.”
Bà kêu gọi: “KBC đang mong chờ những người còn yêu lính đến giúp phát triển. Hy vọng KBC không phai mờ trong trí nhớ chúng ta. Hy vọng chúng ta sẽ mang KBC về đất nước. Xin quý vị góp một viên gạch xây dựng nguyệt san này. KBC Hải Ngoại còn sống là niềm tin của chúng ta còn sống.”
“Ðã khai sinh ra KBC Hải Ngoại là phải duy trì. Muốn duy trì là phải đóng góp. KBC từng đại diện cho những ngày chúng ta chiến đấu. Giờ KBC vẫn đại diện chúng ta ở hải ngoại. Xin giữ và đừng bỏ KBC,” ông Lê Lào, một cựu quân nhân QLVNCH từ San Diego về dự tiệc, phát biểu.
Ông Trần Quang An, phó chủ tịch Hội Ðồng Ðại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại, phát biểu với lời rao bán báo KBC Hải Ngoại rất vui nhộn và nói một cách thực tế hơn: “KBC Hải Ngoại không phải là tờ báo của giới đầu tư mà là một sự hợp tác để có tiếng nói khắp năm châu. Các liên hội và hội trưởng là tiếng nói rất quan trọng. Xin các chiến hữu có dịch vụ quảng cáo hãy giúp KBC Hải Ngoại hoặc vận động các chiến hữu mua dài hạn. Tôi hy vọng qua buổi tiệc hôm nay, số người ghi danh mua báo sẽ tăng lên.”
Ông còn đề nghị: “Tôi đề nghị từ nay đến Tết, mỗi khi có tiệc tùng, đề nghị các hội trưởng dành một phần chương trình cho phép KBC Hải Ngoại đến vận động mua báo dài hạn. Tôi tin quý vị sẽ không để KBC Hải Ngoại chết mà còn sống mạnh nữa.”
Sự ra đời và tồn tại của KBC Hải Ngoại cũng làm thế hệ trẻ ngưỡng mộ, dù trải qua nhiều khó khăn trong thời gian qua.
Nghị Viên Westminster Tạ Ðức Trí nói: “Bản thân tôi rất cảm động và hiểu được trong thời gian qua KBC Hải Ngoại đúng là tiếng nói đoàn kết và duy trì lửa tranh đấu của các cựu quân nhân. Và thế hệ chúng tôi cảm nhận được sự hy vinh của các chú các bác.”
Sau đó, nghị viên gốc Việt này đã trao tặng ban tổ chức một tấm chi phiếu để ủng hộ KBC Hải Ngoại.
“Cháu xin đại diện Tổng Hội Sinh Viên cảm ơn các chú với việc làm trong sáu năm qua. Trong tương lai, nếu có thể làm được điều gì giúp KBC Hải Ngoại đến với đồng hương nhiều hơn, chúng cháu sẽ cố gắng. Ngay sau buổi tiệc này, cháu sẽ nói chuyện với chú Thái để bàn cụ thể hơn,” anh Lý Vĩnh Phong, phó chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên, phát biểu.
Trước đó, qua phần điều khiển chương trình của ông Phạm Ðình Khuông, ông Bồ Ðại Kỳ, đại diện ban chủ biên KBC Hải Ngoại, đã trao một số phần thưởng và hoa cho một số doanh nghiệp và mạnh thường quân đã giúp đỡ tờ báo trong thời gian qua.
Ðó là Luật Sư Nguyễn Ðỗ Phủ, Bác Sĩ Ðặng Phi Long, ông bà Trần Hải và Thu Thảo (Việt Satellite), công ty gởi tiền Hoa Phát, Bác Sĩ Huỳnh Văn Chỉnh, nhật báo Người Việt, công ty xe đò Hoàng, Bác Sĩ James Việt Trần, văn phòng Luật Sư Nguyễn Kiều Diệm và Luật Sư Nguyễn Chí Tôn, ông bà Charlie Vũ Hồng Chương (Farmers Insurance) và Bác Sĩ Vương Ðức Hậu.
Tiếp tục chương trình là phần văn nghệ thật hùng tráng và sôi nổi bao gồm các ban hợp ca Thủy Quân Lục Chiến, Không Quân và Hải Quân và nhiều ca sĩ khác.
Trong lúc chương trình văn nghệ diễn ra, một số người trong ban tổ chức cầm thùng tiền và một số sách đi các bàn tiệc xin ủng hộ.
Nhiều cá nhân và hội đoàn đã đóng góp ngay tại chỗ bằng những tấm chi phiếu và những lời chúc mong KBC Hải Ngoại được tồn tại mãi mãi.
Sau đó là chương trình dạ vũ cho tới 11 giờ đêm mới kết thúc.
KBC Hải Ngoại ra đời năm 2001 do nhà báo Nguyên Huy chủ trương, lúc đó có sự góp mặt của hai nhà báo Anh Thành và Vương Hồng Anh và nhà thơ Du Tử Lê. Sau này, có thêm sự tham gia của nhà báo Vương Trùng Dương.
Sau đó, KBC lại có thêm sự tham gia của hai nhà báo Ðặng Trần Hoa và Lê Xuân Mai (tức Lê Tường Vũ).
Theo nhà báo Nguyên Huy, có một thời gian, KBC Hải Ngoại được trao lại cho công ty Người Việt và công ty này trao cho nhà báo Võ Long Triều chịu trách nhiệm khoảng sáu tháng.
Sau đó, KBC Hải Ngoại lại trở lại với ban chủ biên hiện nay, bao gồm Bồ Ðại Kỳ (chủ nhiệm), Nguyên Huy (chủ bút), Lính Già Biên Phòng, Ngọc Minh, Hồng Huy và Lê Tường Vũ (tổng thư ký).
Hội Ðồng Quản Trị do ông Tô Phạm Thái đại diện.
Phụ tá tổng thư ký hiện nay là nhà báo Ðặng Phúc và các cộng tác viên bao gồm Ðỗ Văn Phúc, Trần Văn Ngà, Mường Giang, Bảo Ðịnh, Phạm Phong Dinh, Huy Phương, Toàn Như, Lê Công Truyền, Trường Sơn Lê Xuân Nhị, Huỳnh Mai Hoa, Phan Ngọc Châu, Ðinh Lâm Thanh, nhóm Huynh Ðệ Chi Binh và Mạng Lưới Thông Tin Chiến Hữu VNCH.
Các tranh vẽ của KBC Hải Ngoại do họa sĩ Nín phụ trách. Pháp luật thì do tổ hợp luật sư Ðỗ Phủ và Anh Tuấn chịu trách nhiệm.
Nhà báo Nguyên Huy cũng cho biết về mặt tài chánh, ba số tiên khởi của KBC Hải Ngoại do ông Nguyễn Văn Cảnh, chủ nhân phở Nguyễn Huệ, hỗ trợ toàn bộ. Sau đó, báo bán được và tự hỗ trợ một thời gian. Sau này, công ty Người Việt hỗ trợ thêm phần quảng cáo dài hạn.
Nhà báo này cũng cho biết, trong sáu năm qua, KBC Hải Ngoại cũng thay đổi đường lối từ khẩu hiệu cũ “Diễn Ðàn Của Những Người Ðã Ðóng Góp Cho Ðất Nước” sang khẩu hiệu mới “Trước Hiện Tại, Nghĩ Về Quá Khứ, Nhìn Về Tương Lai.”
Nghĩ lại chặng đường đã qua, chủ bút nguyệt san KBC Hải Ngoại tâm sự: “Sự đóng góp của anh em có gia tăng và tất cả đều ý thức rằng mình đã đóng góp với khả năng của mình cho đất nước. Nhưng rất tiếc, chiến lược của các thế lực quốc tế đã không phù hợp với nguyện vọng của một thế hệ thanh niên Việt Nam.” (Ð.D.)
Friday, November 21, 2008
34 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Đức
Thường Đức quê tôi
Kính tặng các chiến sỉ QLVNCH trong mặt trận Thường Đức
Giặc qua sông Côn về Thường Đức
Trong cơn gió lạnh cuối Trường Sơn
Quân ngược dòng sông đêm thao thức
Di binh chuyễn pháo tấn công đồn
Anh Biệt Động Quân đêm phòng thủ
Nhìn qua ánh sáng lổ châu mai
Thêm một đêm dài không giấc ngủ
Khói thuốc cay mờ trong mắt ai
Anh lính địa phương trong lô cốt
Tay cầm ống phóng bảy mươi hai
Bên xóm nhà xa đèn ai đốt
Lập lòe ánh lửa bóng liêu trai
Anh lính Pháo Binh ghi tọa độ
Sẵn sàng yểm trợ pháo tầm xa
Chùi súng ,thông nòng lo tu bổ
Tay sờ thép lạnh ướt sương pha
Anh Thiết Kỵ về đường liên tỉnh
Băng ngang Đại Lộc đến Hà Nha
Vó câu dong ruổi như đời lính
Từ độ lửa binh chẳng về nhà
Anh lính Không Quân từ Đà Nẵng
Phi pháo từng đêm chận giặc về
Có lẻ đêm nay anh thức trắng
Đợi chờ phi vụ đắng cà phê
Anh Nhảy Dù về từ Quảng Trị
Ba lô ,súng đạn tới Cầu Chìm
Nhận đồ tiếp tế trên chiến lủy
Nghe hờn sông núi dậy trong tim
Đại pháo từng đêm trên chiến trận
Xe tăng , bộc phá mở hàng rào
Anh vẫn hiên ngang làm bổn phận
Quê mẹ vì ai tẩm máu đào
Hơn ba mươi năm ngày lịch sữ
Thường Đức quê tôi những ngày buồn
Cũng bóng tre xanh người Thượng nữ
Vu Gia sông cũ nước xuôi nguồn
Tôi nhớ ơn anh người lính chiến
Tháng ngày bảo vệ xóm làng tôi
Những kẻ hy sinh trên trận tuyến
Ngàn sau còn nhớ mải không thôi .
SVSQ Lê Chiến khóa 8/72 SQTB
Binh Chủng Nhảy Dù 20 Năm Chiến Sự Cập nhật 15/11/2008
Mặt Trận Thường Đức
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
Sau khi Hiệp Định Paris được ký kết tại Paris vào cuối tháng 1/1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu. Hai sư đoàn Tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn bị lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, và từ sông Mỹ Chánh ra đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa tới tận chân dãy Trường Sơn, các căn cứ Anne (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến lược chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ An Lổ,cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) về phía Nam là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 sau ngày ký hiệp định tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không có phản ứng, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Song song với việc Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của QL-VNCH đồng thời ào ạt di chuyễn bộ đội trên đường mòn HCM vào các quân khu 2 và 3. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược nhờ địa thế núi rừng hiểm trở.
Thường Đức là một trong 9 quận của tỉnh Quảng Nam (Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang và Hiếu Nhơn), được thành lập năm 1962, tách ra từ quận Đức Dục, nằm trong thung lủng Hà Tân, một khu vực nghèo nàn khô cằn sỏi đá ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 60 cây số, và phía Tây là vùng rừng núi trùng điệp chạy dài tới biên giới Việt - Lào khoảng 50 cây số. Đây là tiền đồn chiến lược bảo vệ căn cứ quân sự và phi trường Đà Nẵng, một trong những căn cứ lớn nhất của VNCH.
Địa hình Thượng Đức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng đứng. Phía Đông bằng phẳng, từ quận Điện Bàn trên giao điểm Quốc lộ 1, Liên tỉnh lộ 4 chạy dọc theo sông Vu Gia dẫn vào Thường Đức dài khoảng 40 cây số, đường sá rất hiểm trở. Quận lỵ Thường Đức nằm ngay ngã tư Liên tỉnh lộ 4 và Quốc lộ 14 và cũng là nơi hợp lưu của hai con sông Côn và sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang Đông. Chính phủ VNCH cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam. Vùng chung quanh đường 14 có bộ lạc Katu sinh sống.
Trước kia Lực Lượng Ðặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ đã xây dựng và để lại một căn cứ phòng thủ chiến lược với hệ thống giao thông hào liên hoàn trong căn cứ cùng với 35 lô cốt nửa chìm nửa nổi, mỗi lô cốt rộng bốn mét, xây dựng bằng xi măng cốt thép bao bọc hai lớp bao cát đặt ngang ở giữa, nhiều công sự có nắp và một hệ thống nhà hầm và hầm ngầm. Khu thông tin, chỉ huy pháo binh, bệnh viện, kho đều nằm sâu trong lòng đất. Trong khu vực nhà ngầm được chia thành nhiều phòng. Lực lượng VNCH ở Thượng Đức có Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng, hai đại đội Địa Phương Quân, một đại đội Cảnh Sát Dã Chiến, một trung đội Viễn Thám và 16 trung đội Nghĩa Quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Quốc Hùng, quận trưởng.
Về mặt chiến lược Thường Đức còn là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát, khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Đông mà CSBV vừa mới khai dựng sau ngày ký hiệp định 27/1/1973. Từ phía Bắc quân dụng và chiến cụ theo đường mòn HCM đưa từ A-Lưới đến A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên LTL 4 cách Thường Đức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn trử quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm.
Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Đức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng tăng viện viện trợ quân sự cho Sàigòn. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và hỏa lực yểm trợ của chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù).
Đối với Việt Nam Cộng Hòa, trận chiến Thượng Đức đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay cộng sản sau ngày ngưng bắn. Đại Lộc và Đà Nẵng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.
Lực lượng địch tham chiến gồm có :
- SĐ324B gồm các Trung Đoàn 29, Trung Đoàn 6 & Trung Đoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam
- SĐ304 Điện Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, Chính ủy là Trần Bình chỉ huy trực tiếp trận chiến. gồm 3 Trung Đoàn 66, 24 & 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thượng Đức.
- Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến.
- 2 Tiểu Đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà
- Một Trung đoàn Pháo và Trung đoàn Chiến Xa.
Lực lượng địch quân tham gia tác chiến chủ yếu ở Thường Đức là Sư Đoàn 304 với Trung Đoàn 66 được tăng cường Trung Đoàn 29 (còn gọi là Trung Đoàn 3) /Sư Đoàn 324, Tiểu Đoàn 1/Lữ Đoàn 219 Công Binh, một đại đội tên lửa A72 (SA-7) và một đại đội tên lửa B72 (AT-3), tất cả từ Quân Đoàn 2 cùng hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà. Các đơn vị của Quân Đoàn 2 đã được cơ giới trên con đường chiến lược mới mở Đông Trường Sơn từ thung lũng Ba Lòng (Quảng Trị) xuống. Riêng Trung Đoàn 3/ Sư Đoàn 324 vừa mới được cơ giới từ thung lũng A Shau (Thừa Thiên) xuống tham gia đánh trận Dak Pek, sau đó đã cơ động trở lại Quảng Nam đễ tham gia chiến dịch Thường Đức.
SA-7 và AT-3 đều được gọi là "tên lửa" (hỏa tiển), nhưng công dụng khác nhau. SA-7 là hỏa tiển phòng không, chống máy bay hoặc trực thăng, nhỏ gọn, dài khoảng 1.47 mét với đường kính 70mm nằm trong một ống phóng ngắn có thể bắn từ trên vai. AT-3 được chế tạo để chống thiết giáp (xe tăng, thiết vận xa) hoặc bắn vào các công sự chiến đấu kiên-cố.
Trận Thường Đức do cán bộ Sư Đoàn 304CSBV trực tiếp chỉ huy. Trong cuộc họp chuẩn bị giữa Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 với bộ chỉ huy Quân Khu 5 CSBV, đã có việc trao đổi kinh nghiệm sử dụng pháo bắn thẳng có hiệu lực cao ở Nông Sơn. Tư lịnh Sư Đoàn 304 CS khẳng định sẽ tiêu diệt Thường Đức với hỏa lực hùng hậu của BộTư Lệnh B5 yểm trợ gồm cấp số trang bị pháo 85 ly và 105 ly gấp đôi của Sư Đoàn 2 CSBV lại có thêm súng cối 160 ly có sức công phá lớn, yểm trợ đắc lực cho bộ binh xung phong.
Quân Đoàn 2 CS tổ chức một bộ phận tiền phương đi cùng với Sư Đoàn 304 do Ðại Tá VC Hoàng Đan, phó tư lệnh quân đoàn phụ trách.
Với nhiệm vụ tấn công chi khu quận lỵ Thường Đức, thử thách quan trọng đối với Sư Đoàn 304 là việc chuyển vận đưa vũ khí đạn dược vào trận chiến. Hai tổ trinh sát từ hai hướng hoạt động gởi về báo cáo các kế-hoạch mở đường. Sau khi cân nhắc, cán bộ chỉ huy Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 quyết định mở đường từ Trào vào bến Hiên. Con đường này Cộng Sản Bắc Việt phải làm mới 45km, còn 21km dựa vào con đường VNCH làm dở dang đã bỏ từ lâu, sửa lại là xe pháo đi được, việc bảo đảm bí mật đưa lực lượng vào chiến dịch cũng tốt hơn. Ngoài việc ghép thuyền chở pháo, và các loại vũ khí cộng quân còn đóng nhiều bè chuối, bè nứa để vận chuyển đạn và gạo vào chiến dịch
Đoạn đường từ bến Hiên vào Thượng Đức dài 17km, phía VNCH thường đưa thám báo ra phục kích, cộng quân chưa thể sửa ngay được. Giai đoạn đầu, cộng quân phải dùng thuyền, bè chở pháo đạn xuôi sông Côn rồi dùng sức người đưa pháo lên chiếm lĩnh trận địa. Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 hạ quyết tâm đến ngày 20-7 phải làm xong đường để đưa các lực lượng chính yếu vào đánh chiếm Thường Đức.
Sau hơn một tháng vật lộn với con đường, đêm 17 tháng 7/1974, các xe pháo của cộng quân đã bí mật kéo vào tập trung ở thôn Hiên. Các đại pháo 122 mm của Sư Đoàn 304 được bố trí trong các làng bản không có người ở, vì dân đã bỏ đi từ lâu, nay biến thành rừng. Cối 160 mm vào tới vị trí an toàn cách căn cứ Thượng Đức 3 km. Bộ đội và dân công lại đưa pháo 85 mm vượt qua một bãi sình lầy lên điểm cao 118 để bắn trực tiếp vào Thượng Đức.
Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 đặt tại phía Đông Nam núi Hà Sống, tại đây có thể quan sát rõ bộ binh xung phong lên Thượng Đức. Sư Đoàn 304 chia thành ba mũi tiến công vào Thượng Đức: Trung Đoàn 66 với Tiểu Đoàn 7,8 và 9 tấn công vào các vị trí VNCH ở trung tâm chi khu quận lỵ , bộ đội địa phương, dân quân du kích tấn công vào các thôn xung quanh quận lỵ, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324 chiếm lỉnh các cao điểm ngăn chận viện binh ở vòng ngoài dọc theo phía Bắc LTL 4.
Lực lượng bạn :
- Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng,
- Hai Đại Đội Địa Phương Quân,
- Một Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến,
- Một Trung Đội Viễn Thám
- 16 Trung Đội Nghĩa Quân
- LĐIND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 1,8,9 ND và TÐ1PBND
* Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Văn Nhỏ làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghi làm Tiểu Đoàn Trưởng.
- LĐ3ND do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2,3,6 ND và TÐ3PBND
* Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, Thiếu Tá Võ Thanh Đồng làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Hửu Thành làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù Thiếu Tá Nguyển Văn Thông làm Tiểu Đoàn Trưởng
Diển Tiến :
Khởi sự ngày 29/7/1974 Trung đoàn 29/324CSBV bắn hoả tiển vào phi trường Đà Nẳng,cùng lúc pháo kích vào quận lỵ Thường Đức đễ triệt hạ các công sự phòng thủ và tấn công các vị trí tiền đồn do các đơn vị Nghĩa Quân và ĐPQ trấn giữ. Kho đạn của quận lỵ bị bốc cháy, Chi Khu Thượng Đức mất liên lạc với ba vị trí tiền đồn của Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân và hai vị trí tiền đồn của Biệt Ðộng Quân nhưng pháo binh từ Đồi 52 gần Đại Lộc yểm trợ hữu hiệu, gây nhiều thiệt hại cho quân Cộng Sản.
Trung Đoàn 66 CSBV dùng bộc phá mở hàng rào ở hướng chính, Tiểu Đoàn 7 CSBV bị một Trung Đội ĐPQ chận đứng với một khẩu đại liên 50 (đại liên 12.7 mm) ở Trúc Hà. Cộng quân dùng pháo 85 ly bắn trực xạ diệt được khẩu đại liên 50 của trung đội ĐPQ, Tiểu Đoàn 7 CSBV tiếp tục đưa lực lượng vào đột phá nhưng cũng không thành công.
Hướng Tiểu Đoàn 9 CSBV, mặc dù chiến đấu rất dữ dội, nhưng mở đến hàng rào thứ tư thì bị lính BĐQ đánh trả mạnh mẽ. Cộng quân bị thương vong quá nhiều phải dừng lại. Phía VNCH phản ứng rất nhanh, Không Quân VNCH từ Đà Nẵng bay lên đã ném bom chính xác vào ngay hàng rào. Khi Bắc quân bắn nát một lô cốt và chuyển sang lô cốt khác, TĐ79 BĐQ lập tức đưa quân bám lấy lô cốt sập, bắn chận không cho quân Bắc Việt tiến lên.
Sáng sớm hôm sau, ngày 30/7/1974 CSBV pháo dử dội và tấn công vào chi khu Thượng Đức, Chi Khu Trưởng bị thương nặng nhưng quân ta vẫn giử vửng được phòng tuyến, các binh sĩ VNCH tiếp tục anh dũng đánh bật các đợt tấn công của Bắc quân. Phi cơ quan sát của VNCH phát hiện một đoàn quân xa và pháo binh của VC di chuyển trên liên Tỉnh Lộ số 4 phiá Tây Thượng Đức, Không quân VNCH từ Đà Nẵng đã được gọi đến oanh kich tiêu diệt 3 chiến xa của địch.
Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng cường tập rất mạnh của Trung Đoàn 66 CSBV và sau nhiều đợt pháo bắn yểm trợ cho nhiều đợt bộ binh tấn công nhưng vẫn không thành công trước sự chống trả vô cùng anh dũng, quyết liệt của những người lính VNCH được Không Quân từ Đà Nẳng lên yểm trợ đắc lực.
Sau hai ngày đêm tấn công quyết liệt, Trung Đoàn 66 vẫn không “mở cửa” được trong khi bị thiệt hại nặng nề, phài dừng lại cũng cố đội hình. Đêm 30/07 Nguyễn Chánh, Tư lịnh phó Quân Khu 5, phải ra mặt trận để chấn chỉnh lại đội ngũ và quyết định đưa pháo vào gần để bắn trực xạ.
Ngày 31/7/1974 sau những đợt pháo tập khũng khiếp, Trung Đoàn 66 CSBV liên tục đưa lực lượng tiến sát vào vòng đai phòng thủ nhưng Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng ĐPQ/NQ Thượng Đức chống trả rất dữ dội khiến cộng quân bị thương vong rất nhiều mà hàng rào vào quận lỵ vẫn chưa mở được. Tiểu Đoàn Trưởng 79 BĐQ yêu cầu dội pháo ngay lên hầm chỉ huy của ông. Các công sự phòng thủ cũng như hệ thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên tục của quân CSBV nhưng lính mũ nâu vẫn giữ được căn cứ và sau cùng Cộng quân cũng chiếm được bải đáp trực thăng phiá ngoài đồng thời bố trí quân trên các cao điểm để chế ngự Tỉnh lộ 4 ở phía Đông Thượng Đức chờ quân đội VNCH phản công theo đúng chiến thuật "đánh điểm diệt viện." Trước sự thiệt hại nặng nề của Trung Đoàn 66, Sư Đoàn 304 phải ra lệnh cho Trung đoàn ngừng tiến công và chuyển sang phòng ngự giữ bàn đạp đã chiếm được.
Trong ngày nầy Quân cộng sản cũng pháo vào các vị trí của Trung Đoàn 2 BB và Pháo Binh đóng tại Đại Lộc. Sau khi tổn thất nặng ở trận Đức Dục vài tuần trước Trung Đoàn 2 BB đang được tái bổ sung và huấn luyện ở phía tây Đại Lộc, một pháo đội 175 ly được di chuyển ra quận Hiếu Đức để yểm trợ cho Thượng Đức. Sau đợt tấn công đầu tiên của quân CS, Trung Tá Quận Trưởng Nguyễn Quốc Hùng tuy bị thương gãy chân nhưng vẫn báo cáo về Đà Nẵng là giữ được Thượng Đức và yêu cầu tăng viện. Bộ Chỉ Huy Chi Khu Thượng Đức ráo riết huy động binh lính cũng cố các công sự phòng thủ. Phát hiện được lực lượng đang bao vây Thượng Đức là bộ đội chủ lực CSBV vừa di chuyển từ Quảng Trị vào, Không Quân VNCH đã được gọi tới oanh kích dữ dội vào đội hình vây lấn của địch quân.
Tại chi khu Thượng Đức, tổn thất của Biệt Ðộng Quân và các đơn vị trú phòng ngày càng gia tăng trong khi việc tải thương không thực hiện được do hỏa lực phòng không ác liệt của cộng quân. Tướng Trưởng điều động một Chi đoàn chiến xa M-48 từ Tân Mỹ phía Bắc Hải Vân vào Đà Nẵng làm trừ bị cho Tướng Hinh khi tình hình trở nên nghiêm trọng.
Ngày 1/8/1974 để giải toả áp lực địch, Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lịnh Sư Đoàn 3 BB đã thành lập một Chiến đoàn đặc nhiệm gồm Trung Đoàn 2BB và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh từ Đại Lộc đi dọc theo Tỉnh lộ 4 tiến về Thượng Đức.
Ngày 3/8/1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2BB bắt được một tù binh Bắc Việt ở phía Đông Thượng Đức, theo cung từ cuả tù binh nầy cho biết Trung đoàn 29 CSBV đã chiếm giữ các cao điểm 1235 và 1062 để chế ngự tỉnh lộ 4 giữa Thượng Đức và Đồi 52 ở phía Tây Đại Lộc, con đường tiếp liệu và tiếp viện cho Thượng Đức trong khi Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 được tăng cường lực lượng chuẩn bị dứt điểm Thượng Đức.
Bắt đầu đợt tấn công mới. Pháo binh CS, đã hạ nòng bắn tập trung diệt từng lô cốt một của căn cứ. Không Quân VNCH đã gởi phi pháo đến yểm trợ và trọng pháo tác xạ dữ dội vào các vị trí quân CS. Nhưng rút được kinh nghiệm của đợt tấn công trước, đội hình bộ binh cộng quân áp sát mục tiêu hơn và có công sự chu đáo nên tránh được thương vong nặng như lần trước. Đạn pháo bắn thẳng phá tung những lô cốt còn lại, sau đó cối 160 mm nện chính xác vào khu trung tâm rồi pháo chuyển lần hướng dẩn cho bộ đội tiến tới.
Mặc dầu được tăng cường Tiểu Đoàn 1/57, Chiến đoàn của Trung Đoàn 2 tiến rất chậm trước sự kháng cự của Trung Đoàn 29 CSBV và hỏa lực pháo binh hùng hậu của Cộng quân dọc theo các cao điểm 1235 và 1062 cạnh LTL4. Trong khi tại Thường Đức, tình hình trở nên nguy kịch khi lính Biệt Ðộng Quân sắp cạn kiệt đạn dược cũng như lương thực. Không Quân VNCH cố gắng thả dù tiếp tế khẩn cấp vào ngày 5 tháng 8 nhưng do hỏa lực phòng không ác liệt của Bắc Việt, tám kiện hàng tiếp tế đều rơi ngoài chu vi phòng thủ. Một oanh tạc cơ A-37 bị bắn rớt khi định tiêu diệt các kiện hàng tiếp tế không may rơi vào khu vực do quân CSBV kiểm soát.
Lo ngại về mối đe dọa nguy hiểm lớn cho Đà Nẵng từ hướng Tây của Đại Lộc, Tướng Trưởng khẩn cầu trực tiếp với Đại Tướng Cao Văn Viên cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù từ Sàigòn ra tăng viện đồng thời ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đang phòng thủ phía tây Huế chuẩn bị di chuyển vào Quảng Nam, nhưng các hoạt động này đã không còn kịp đễ cứu vãn tình thế cho Thượng Đức.
Mặc dầu liên tục pháo vào Thường Đức từ ngày 29 tháng 7, cường độ pháo trong đêm 6 tháng 8 gia tăng mạnh với trên 1,200 đạn pháo. Ở hướng chính của căn cứ, Cộng quân dùng bộc phá liên tục để mở ngỏ, nhưng binh sĩ VNCH trong hầm ngầm chui ra các lô cốt đã bị sập, bắn trả quyết liệt. Đến 7 giờ sáng ngày 6 tháng 8/1974, Địch quân vẫn chưa vào được quận lỵ.
Suốt một ngày và đêm 6 tháng 8/1974 chiến đấu liên tục, Tiểu Đoàn 9 CSBV đã mở được cửa đột phá và đánh chiếm được một số lô cốt tuyến chiến hào thứ nhất. Nhưng khi phát triển vào trung tâm, các mũi tiến công của Cộng quân bị khựng lại trước hệ thống hỏa lực dày đặc của Binh Sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng lính Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân ở Thượng Đức quyết không đầu hàng nên đã chiến đấu vô cùng quyết liệt, đánh trả các cuộc xung phong của bộ đội CSBV đến người lính cuối cùng và viên đạn cuối cùng.
Trên trời, máy bay A-37 của Không Quân VNCH liên tục quần đảo bắn phá và bổ nhào trúc bom đánh ngay vào khu vực hàng rào căn cứ, chi viện cho quân đồn trú ở Thượng Đức giữ vững khu vực còn lại. Những người lính mũ nâu anh hùng của Tiểu Đoàn 79 BĐQ tiếp tục đẩy lui một đợt tấn công nữa vào đêm này.
Đến 1 giờ ngày 7-8, cộng quân chuyển hướng tiến công của Tiểu Đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Đến 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8 năm1974, sau khi củng cố lực lượng và bố trí lại đội hình, Trung Đoàn 66 mở đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hỏa lực của pháo binh CS bắn chi viện cho Tiểu Đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Những người lính BĐQ, ĐPQ và NQ còn sống sót rút vào lô cốt ngầm bắn ra như điên như dại, chống cự quyết liệt.
Tiểu Đoàn 9 đã chiếm được khu Địa Phương Quân và phát triển xuống khu cảnh sát, quận lỵ. Tiểu Đoàn 7 từ hướng tây bắc đã sang hướng Tiểu Đoàn 9, đột phá vào khu Biệt Ðộng Quân. Lúc 8 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8/1974, Sư Đoàn 304 đã tràn ngập cứ điểm Thượng Đức. Tiểu đoàn trưởng BĐQ báo cáo mở đường máu rút lui trước khi liên lạc bị mất vào trưa ngày 7 tháng 8.
Thượng Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay quân Bắc Việt sau ngày ngừng bắn và một cơ hội cho Hà Nội đánh giá phản ứng và khả năng yểm trợ cho VNCH của Hoa Kỳ khi chiến sự bắt đầu leo thang.
Do chủ quan về khả năng chiến đấu của chủ lực cơ động cùng pháo binh hùng hậu yểm trợ, Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 đã phải trả một giá khá đắt, thiệt hại nặng nề với 75% quân số thương vong khi bị Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng các người lính ĐPQ/NQ và CSDC của chi khu Thượng Đức được sự yểm trợ tích cực và hữu hiệu của Không Quân VNCH từ phi trường Đà Nẳng đã chận đứng và đánh bật hàng loạt các đợt tấn công kéo dài suốt 9 ngày đêm. Các người lính VNCH đã không chịu đầu hàng mà chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, cho đến giọt máu cuối cùng. Nhưng sự hy sinh anh dũng này đã đi vào quên lãng do địa thế hẻo lánh, không được nhiều người biết đến.
Sư Đoàn Nhảy Dù tham chiến :
Ngày 8/8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 Tiểu Đoàn trực thuộc 1, 8, & 9ND được khẩn cấp không vận đến vùng hành quân Đại Lộc bằng phi cơ C130, một ngày sau khi Thường Đức thất thủ, trong khi các thiết bị nặng như đại bác 105-ly và xe cộ được đưa ra bằng tàu của Hải Quân. Sau khi nghỉ đêm tại Quận Hiếu Đức, sáng hôm sau Lữ Đoàn I ND di chuyển bằng đoàn xe GMC hướng về quận Đại Lộc, qua Ái Nghĩa, cầu Chìm. Đoàn xe dừng tại đây, mọi người ba lô súng đạn gọn ghẽ, triển khai đội hình từ từ tiến vào vùng hành quân.
Ngày 11/8/1974 Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn 2, 3 & 6 được lệnh di chuyển bằng phi cơ từ phi trường Phú Bài xuống phi trường Đà Nẵng trách nhiệm án ngử ở quận Hiếu Ðức sau khi bàn giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân / Quân Khu 1.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) cũng di chuyển đến Đà Nẵng. bản doanh tại phi trường Non Nước ở phía Nam Đà Nẵng.
Trên vùng đồi núi chập chùng nằm phía bắc thung lũng sông Vu Gia, Liên Tỉnh Lộ 4 nối liền Thường Đức với khu vực đồng bằng duyên hải, 2 bên trái phải là 2 dãy núi cao chót vót trùng điệp chạy chụm lại, 2 dãy núi gặp nhau tại một khe núi rất hẹp, có tên là Ba khe, với ngọn đồi 52 trọc đỏ ối nằm ngay yết hầu con đường độc đạo chạy từ Đại Lộc vào Thường Đức, vào sâu nữa là vùng Bến Giàng rồi Khâm Đức.
Dọc hai bên sườn đồi, địch quân như có ý đồ từ lâu, hầm hố được dựng rất kiên cố. Họ cưa cột nhà của dân chúng đem gác thành khung chữ A, tháo tôn trên mái nhà đặt lên mặt, rồi tấn đất cát chặt lên trên. Từng chiếc hầm kiên cố, nếu một quả đạn 105 ly có nổ trên nắp hầm cũng chả ăn thua gì, địch vẫn ngồi bên dưới ung dung kéo thuốc lào.
Địch đã xây dựng hệ thống phòng thủ này từ lâu lắm rồi. Họ đã khống chế toàn vùng từ khuya, nhưng vẫn để cho con đường độc đạo này thông thương qua lại, dân chúng vẫn ra vào, quân ta vẫn đi lại lui tới tưởng như vô sự. Nhưng nếu thử tung một toán trinh sát lấn sâu sang bên lộ thử xem, địch quân đang nằm trong đó. Cho nên khi địch lật úp bàn tay thì toàn bộ lực lượng Sư đoàn 3BB và Biệt Động Quân tan tác trong nháy mắt. Vị sĩ quan Đại đội trưởng ĐĐ/BĐQ trấn thủ đồi 52 khi chạy thoát về gặp Nhảy Dù, chỉ còn có một người lính mang máy PRC-25 đi theo, ông ta vẫn chưa kịp hoàn hồn.
Cách Liên Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 km về phía Bắc, đồi 1235 nằm ở phía đông Thường Đức là đỉnh cao nhất, trong khi Đồi 1062 cách đó khoảng 2 km về phía Nam có vị trí chiến lược quan trọng có thể quan sát khống chế toàn bộ khu vực Liên Tỉnh Lộ 4 và thung lũng sông Vu Gia từ Thường Đức kéo dài cho đến Đại Lộc. Theo con đường độc đạo ngoằn ngoèo, những toán quân của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, của Biệt Động Quân đang nhớn nhác di tản từ Thường Đức ra. Nương theo đoàn binh lính là những dân lành, gồng gánh bồng bế nhau tìm đường thoát hiểm. Những loạt đại bác 130 ly của địch từ núi sâu bắn rải theo đoàn người dọc trên mặt lộ. Mỗi khi một cụm khói bốc lên, đoàn người lại ngã xô xuống. Khi cụm khói tan đi, có dáng người loạng choạng đứng lên lê lết bước, có dáng người vẫn nằm yên một chỗ phơi thây trên mặt đường.
Trung Đoàn 29 CSBV đã đóng chốt trên những ngọn đồi nằm sát Liên Tỉnh Lộ 4 và đã thiết lập một đài quan sát pháo binh ở trên đỉnh 1062 để có thể pháo chính xác vào các vị trí của Việt Nam Cộng Hòa trong khu vực Đại Lộc và kiểm soát tất cả mọi chuyển động trên Tỉnh lộ 4.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được giao cho nhiệm vụ chiếm lại đồi 1062 cùng các ngọn đồi lân cận tiếp giáp với Liên Tỉnh Lộ 4 trong khi Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù bảo vệ Đà Nẵng ở hướng Tây qua quận Hiếu Đức. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù thay phiên nhổ từng chốt Cộng quân bám chặt trong những hốc núi trong suốt một tháng trời, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiến dần lên Đồi 1062.
Sau khi các cánh quân của Nhảy Dù đã vào tuyến xuất phát. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng, Tư Lịnh SĐND cho các đơn vị tiến dọc theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng.
Giai đoạn I của cuộc hành quân:
Ngày 18/8/1974 Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung trận, tuyến xuất phát khởi từ làng Hà Nha. Hà Nha là một dải đồng bằng hẹp, bên trái là con đường độc đạo dẫn vào Thường Đức, bên phải giáp với chân của rặng Sơn Ya ( còn gọi là Sơn Gà) cao ngất trời xanh. Các đơn vị Nhảy Dù chia thành từng toán nhỏ đeo bám trên các sườn núi để diệt các chốt Cộng Sản bằng lựu đạn, vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, thì chạm mạnh với đich quân, họ phải giành giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức. Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đoàn quân Nhảy Dù súng hờm trên tay, cẩn trọng trải rộng đội hình dấn bước vào lò lửa đang sôi sục Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Nhảy Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
Về phía CSBV,Trung Đoàn 29 bị tổn thất quá nặng phải lùi dần về sau nên Quân Khu 5 Cộng Sản phải điều động Trung Đoàn 31 của Sư Đoàn 2 CSBV vào thay cho Trung Đoàn 66 đang giữ Thường Đức để đơn vị này ra tăng cường cho Trung Đoàn 29 để làm chậm lại bước tiến của những người lính Nhảy Dù. Cộng quân cũng đã đưa Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 từ Quảng Trị vào đến chiến trường vào đầu tháng 9/1974 để tăng cường cho mặt trận.
Sáng ngày 18/8, ba Tiểu Đoàn 1ND, 8ND và 9ND vượt tuyến xuất phát, BTL/SĐ Nhảy Dù cũng đã tung các đơn vị Đại Đội 19, 21 và 27 Đa-Năng hoạt động để đánh lạc hướng tình báo địch.( 12 Đại Đội Đa Năng là những Đại Đội thiện chiến ưu tú của SĐND, được tổ chức ngoài bản cấp số. Quân số rút ra từ các đơn vị thống thuộc và được huấn luyện khả năng tác chiến như một Đại Đội độc lập).
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐIND ra lệnh Tiểu Đoàn 8 tiến theo Tỉnh Lộ 4, dọc bờ sông Vu-Già bảo vệ cánh trái trục tiến quân tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52). Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 chuyển lệnh cho Đ/U Phạm Văn Hiệu dàn Đại Đội 83 xung phong thần tốc tấn công thẳng vào làng Hà Nha để giải tỏa đồn Địa Phương Quân.
Khi Trung đội 1/83, Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến vào gần tới bờ làng thì quân CS Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 do Thiếu Úy Nghiêm Sỉ Thành chỉ huy nhào vô cứu bồ vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy hết. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Đại Úy Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Thiếu Úy Tiến dẫn toàn bộ Trung Đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Đ/U Hiệu cho bố trí, binh sĩ canh gác cẩn mật, đào hầm hố củng cố vị trí chiến đấu. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Đ/U Phạm Văn Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ đã chuẩn bị hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến và Thiếu Úy Nghiêm Sĩ Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân CS Bắc Việt cứ nhào tới định tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai Sỉ quan nầy ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời hai người hùng trai trẻ của Ðại Ðội 83. Đây là hai sĩ quan đầu tiên của Tiểu đoàn 8 ND ngã xuống trên mặt trận Thường Đức, mở đường cho năm sĩ quan Trung Đội Trưởng sau đó theo chân Tiến ra đi không hẹn ngày về.
Đ/U Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lê Mậu Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số tù binh.
Trong lúc đó, Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, đi cánh phải của Lữ Đoàn, tiến chiếm mục tiêu đầu là cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Ya tiến về hướng Tây tới 1062. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của quân CS Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý (Tiểu Đoàn Phó) chỉ huy 2 Đại Đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà.
Một trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại "mìn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Ðại Ðội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì mìn hơi này.
Hôm sau, Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Dù vẫn gặp khó khăn trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những hốc đá. Một toán tiền quân của Đại Đội 11 đã diệt được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đã chết do cụt chân vì mìn hơi và một người còn sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đó vị trí các lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa. Sau khi chiếm được Đông Lâm, hai Đại Đội 11 và 14 trực chỉ tới mục tiêu B.
Tiểu Ðoàn 9 ND giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi che phủ. Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 92, Trung Úy Thăng, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 94, Đại Úy Trọng, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 91, cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tửu phải băng qua một cánh rừng tràm để đến đồi 383 rồi mới tiến sát tới đỉnh 1062, .
Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9 không sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B1 trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân nên Đại Úy Đinh Văn Tường (Tức Tường Ruby) từ Ðại Ðội 90 ra thay thế.
Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Ðoàn 1 nhờ lợi thế hơn 2 cánh quân bạn, nên tiến quân tốc độ cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn 1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho Lữ Đoàn. Qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho lệnh Đại Ðội 11 đánh bọc hậu phía sau xuống cứ điểm B1, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Ðoàn 9.
Xuyên qua thung lũng, Ðại Úy Thể dẫn quân tấn công vào phía sau B1 một cách bất ngờ ở ngay sau lưng địch. Đối diện với Cộng quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, Đại Ðội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Quân CS Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, Ðại Ðội 11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. Sau này Tiểu Ðoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062 :
Trời sẩm tối, chờ bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến Trung Đội Trưởng bị hy sinh. Sáng hôm sau 20/8/1974, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14 bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Kế đó, TĐ1ND tiếp tục tiến về cứ điểm C, một tiền đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của Đại Úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn, ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn.
Suốt 3 ngày cầm cự, Ðại Ðội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Ðại Ðội 11 bám sát tiến lần vào cách mục tiêu C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu đạn. Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quý cho tập trung 5 khẩu đại liên M-60 chờ cho Tiểu Đoàn bắn hơi cay để địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
Ðại Ðội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Ðại Ðội 11 và Ðại Ðội 14 phải trả giá rất đắt.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở, rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Lúc nầy Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố.
Đỉnh 1062, có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng xung kích gồm 2 Trung Đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Đội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung Đội của Ðại Ðội 11. Đây là 2 Sĩ Quan xuất sắc đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho Tiểu Đoàn. Ðại Ðội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Ðại Ðội 11 do Thiếu Tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai Trung Đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình. Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Đoàn Trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung Đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). T/U Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D. Đáng phục thay một Sĩ-Quan can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận với núi sông.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062. Trung Đội của Thiếu Úy Quang có 15 chiến sỉ anh dũng hy sinh.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi lúc một nhiều mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Thiếu Úy Quang bị cháy đen..
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy bị thương trong đó có hai Sỉ Quan Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An.
Trong khi đó Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ và Ðại Ðội 15 của Đại Úy Lộc đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (Truyền Tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Xa Luân Chiến, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù xông trận :
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn khi Tiểu Đoàn 8 bỏ Hà Nha, chuyển lên núi để thay thế cho đơn vị bạn tấn công địch quân trên các cao điểm.
Địch vào trận với lợi thế trên sân nhà, họ lợi dụng tối đa địa thế, địa hình. Khi quân ta vừa băng qua một trảng trống thì bị địch nghênh cản rất mạnh mẽ, nếu nhìn chung quanh có những tảng đá lớn chênh vênh trên sườn núi thì đừng có dại dột chạy vào ẩn nấp, sau lưng tảng đá là một bãi mìn gài sẵn. Địch từ vị trí thuận lợi trên cao nhìn xuống thấy rõ từng người lính đang hút thuốc, đang nấu nướng, địch dùng súng cối 61 ly bắn vào quân ta.
Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062, sức lực của đơn vị cũng đã sức mẻ phần nào, còn lại bao nhiêu sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngã về không. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, cứ như hai gã thanh niên cùng tranh dành một cô gái thơm như múi mít, bên nào cũng đòi quyền sở hữu em gái, không ai chịu nhường ai.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82 của Nam, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiêng 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 84 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị thương.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.
Đại Úy Hiệu dẫn đại đội 83 xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Sang ngày thứ 4 sau ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để phòng thủ.
Vị trí đóng quân giửa TĐ8ND và địch quân chỉ cách nhau khoảng 50m, đôi bên giử thế cài răng lược gờm nhau đã suốt 2 tuần lể, chờ cho đối phương sơ hở là thịt ngay. Tinh thần mọi người luôn căng thẳng, chỉ sơ suất một giây lát là vong mạng.
Lúc 8.30 tối, Cộng quân từ cao điểm hai ngọn đồi 1062 bất thần tấn công xuống 2 mặt, các chiến sỉ Nhảy Dù phản công quyết liệt, và gọi Pháo Binh tác xạ cận phòng dội ngay lên đầu địch. Quân CS thấy Nhảy Dù chống trả quyết liệt và pháo binh tác xạ dữ dội nên chúng rút lui.
Sáng hôm sau địch quân tấn công ban ngày, vì biết Nhảy Dù ở sát nách, chúng cần phải bứng gốc mới mong giữ được 1062. Các Đại Đội 81,83 và 84 cho các chốt bung rộng ra và bám sát tuyến địch. Tất cả các tuyến đều chạm địch. Trung Úy Vũ Đức Tiềm, một Trung Đội Trưởng bị tử thương. Đại Úy Đồng Văn Minh và Trung Úy Hà Mai Trường bị thương nặng phải di tản.
Gần 1 tháng quần thảo Ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì chiếm lại bằng mọi giá. Ngày 19/9/1974 LĐ1ND quyết định tấn chiếm đỉnh đồi 1062, ra lịnh cho các đơn vị lui lại 200m để phi pháo và pháo binh tác xạ liên tục từ 6.00 đến 7.30 giờ cho địch quân không ngốc đầu nổi. Sau đó tất cả đơn vị xung kích Nhảy Dù xung phong tràn lên mục tiêu. Một số lớn cộng quân run rẩy qùy lạy đầu hàng. Họ được đối xử tử tế, băng bó vết thương, cho ăn uống và thuốc hút. Họ nói “chúng tôi nghe tuyên truyền rằng lính Dù các anh ác ôn hung dữ lắm, sao hôm nay các Anh đối xử tốt với chúng tôi quá vậy?”
Sau đó TĐ8ND bung rộng ra lục soát quanh đỉnh đồi tìm thấy trên 300 xác giặc bắt sống thêm 7 tù binh tịch thu gần 200 khẩu súng đủ loại… Sau khi thu dọn chiến trường, TĐ8ND phối trí các đơn vị chiếm giữ các cao điểm và cho binh sỉ bố phòng chuẩn bị địch quân tấn công trả đủa. Nhờ vào địa thế cộng quân làm sẳn các công sự nên các chiến sỉ Dù cũng đở phải vất vả.
Khoảng 2.00 giờ chiều, địch quân bắt đầu pháo tập dữ dội vào 1062 cho đến chiều tối, sau đó tung 3 Trung Đoàn 29, 24 và 66 của SĐ Điện Biên, đơn vị thiện chiến số một của Tướng Giáp, tăng cường Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV quyết tâm tràn ngập và chiếm lại cứ điểm 1062, khắp các tiền đồn đều chạm địch.
Đến 1.00 giờ đêm ngày 20/9, Cộng quân ào ạt tấn công vào 1062. Nhờ chuẩn bị trước, TĐ8ND gọi pháo binh tác xạ vào các điểm hỏa tập tiên liệu cận phòng nên các chiến sỉ Tiểu Đoàn 8 vẫn giữ vững phòng tuyến. Đến 4 giờ chiều, Trung Đoàn Sông Hồng tung thêm lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến. Vào giờ nầy, lực lượng địch bu quanh 1062 dầy đặc như ruồi bu quanh viên kẹo.
Lữ Đoàn 1ND ra lịnh TĐ8ND lui binh về sau khoảng 200 thuớc, dùng phi pháo tiêu diệt địch quân đang bao quanh đỉnh 1062 đông như kiến. Sau các phi vụ oanh kích của Không Quân VNCH, TĐ8ND trở lại tấn kích tái chiếm ngọn đồi chiến lược nầy, đồng thời tung thêm các đơn vị Đa Năng và Trinh sát xâm nhập sâu vào các hốc đá, khe núi chỉ điểm các vị trí đặt pháo của địch nên pháo binh và không quân phản pháo chính xác tiêu diệt được Bộ chỉ huy Trung Đoàn Sông Hồng đầu nảo của VC tại phía Đông Bắc của đồi 1062 khiến địch quân phải tháo lui, bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá nhân, bắt sống 40 tù binh thuộc Trung Đoàn Sông Hồng.
Ngày 2/10/1974 quân CSBV dự định thêm một lần nửa tấn công biển người để tái chiếm căn cứ 1062 nhưng bị Không quân VNCH và pháo binh ND yểm trợ hoả tập kịp thời và chính xác vào các ngọn đồi 383 và 126 gây tổn thất cho địch trên 250 nhân mạng.
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến :
Sau đó, áp dụng chiến thuật xa luân chiến, Tiểu Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (Tiểu Đoàn Trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (Tiểu Đoàn Phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một vài ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi đối diện.
Ngày 29/10/1974, chiều hôm đó trận địa im tiếng sung, tình hình các nơi yên tỉnh, nhưng binh sĩ canh gác tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi. Thiếu Tá Vân ra lịnh cho các đơn vị trực thuộc báo động đề cao cảnh giác, kiểm soát các tuyến phòng thủ, gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế đề phòng địch tấn công bất ngờ.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của Đại Đội 31 của Đ/U Ngụy Văn Đàng. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đứng trên đỉnh 1062 theo dõi châm chú trận đánh. Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng lớp lớp cộng quân rơi rụng.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Đội 31 đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1062 và ngọn đồi không tên. Hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên cùng ào lên 1062 một lượt. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đ/U Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đ/U Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
BCH Tiểu đoàn gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục.
Đại Ðội 34 của Trung Úy Thư, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, lực lượng phòng thủ 1062 của Nhảy Dù phải rút khỏi cứ điểm nầy (2 ĐĐ 31ND, ĐĐT là Đ/U Ngụy Văn Đàng và 34ND, ĐĐT là Trung Úy Phạm Văn Thư cùng 7 Sỉ Quan Trung Đội Trưởng và trên 140 HSQ&BS bị hy sinh vì pháo địch ). Mặc dù có những công sự do Cộng quân đã chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, tuy nhiên địch quân quá đông, phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Ngày 1/11/1974, CSBV tái chiếm đỉnh đồi 1062. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù được lịnh vào vùng tiếp ứng cho TĐ3ND. Tiểu Đoàn 9 dàn quân thành hai mũi ĐĐ93 của Đ/U Đinh Văn Tường và ĐĐ 92 của Trung Úy Nhơn tấn công từ trên cao đánh xuống. Trong lúc đó, bên sườn dốc đứng phía dưới, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ bày trận thế nghi binh để cho địch quân tưởng là ta tấn công mặt nầy. Địch quân dùng giàn thung bắn thư rơi khiêu chiến “ Thách ngụy Dù lên đánh”.
Vì biết địch quân lợi dụng hầm hố kiên cố trên đỉnh 1062, pháo binh của ta không làm gì được, Đại Úy Tường cho phóng lựu đạn cay lên buộc địch quân phải chui ra khỏi hầm sau đó gọi phi pháo thả bom Napalm hỏa thiêu đỉnh đồi 1062 đồng thời xua quân bao vây nguồn tiếp tế và nước. khiến địch quân chịu không nổi phải bỏ chạy. Ta và địch giằng co đỉnh đồi nầy nhiều lần, quân số đôi bên đều bị tiêu hao nhiều. Trung Úy Nhơn bị thương cả hai chân vì đạp phải mìn hơi.
Ngày 8/11/1974 lực lượng Nhảy Dù phản công tái chiếm lại 1062 và lập tuyến phòng thủ quanh sườn núi. Dẹp tan các chốt lẻ tẻ cuả địch và thu nhặt xác các quân nhân Nhảy Dù bị tử trận trong thời gian trước đó. Nhờ thời tiết giá lạnh nên các xác không bị hư hủy..
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau hai tuần nghỉ ngơi và chỉnh trang lại được đưa vào vùng phía Bắc của 1062, Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen") sử dụng tối đa các phi tuần A-37 oanh kích tối đa mục tiêu và áp dụng chiến thuật đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách tung hai Đại Đội 11 & 15 duyên theo đường thông thủy tiến vòng lên phía Bắc thay vì đi theo yên ngựa rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2.
Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 thu được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Thiếu Tá Trần Công Hạnh tân Tiểu Đoàn Trưởng, cùng Tiểu Đoàn trừ đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu Đoàn Phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Thiếu Tá Phương cho các Đại Đội tung ra lục soát, Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn Trung Đội tiến chiếm vị trí chốt mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức. Thiếu Tá Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành-Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Thiếu Úy Lân cũng bị hy sinh. Thiếu Tá Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai đến vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Thiếu Tá Trần Công Hạnh lên làm Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm Tiểu Đoàn Phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (Tiểu Đoàn Trưởng), và Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm Tiểu Đoàn Phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương Đông kích Tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND tiến lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Đến cuối năm 1974 thì Sư Đoàn Nhảy Dù rút quân về quận Đại Lộc nghĩ ngơi, bổ sung thiệt hại và chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp, chỉ để lại Tiểu Đoàn 1 và 7 Dù đóng ở khu vực Đồi 52 và núi Đông Lâm cách Đồi 1062 khoảng 4 km về phía đông, thường xuyên đưa các toán tuần tiểu vào khu vực Đồi 1062 và sử dụng hỏa lực pháo binh để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân. Kể từ đây,tình hình quân sự tại cả hai phía Nam và Bắc đèo Hải Vân hoàn toàn yên tỉnh cho đến khi SĐND bắt đầu rút quân khỏi Quân Khu I khoảng trung tuần tháng 3/1975.
Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh :
Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Đức vào ngày 15 tháng 8 liên tục trong ba tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực đồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đã bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Đoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 Tiểu Đoàn trong chiến dịch này và đến giữa tháng 11 có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Đồi 1062. Ba trung đoàn CSBV (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị thương. Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu .
Nhảy Dù : 500 chiến sỉ hy sinh 2000 bị thương.
Cộng Sản : 2000 chết, 5000 bị thương ( tài liệu :Col.William E. Le Gro trong VietNam from Cease Fire to Capitulation )
Tài liệu tham khảo:
- Đời Chiến Binh của Trương Dưởng xuất bản tại California ngày 15/5/1999
- Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương Làng Văn Canada xuất bản 2001
- Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch Ðột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà vietnam.ictglobal.net
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. Email: pvotin@gmail.com
Tướng Lê Quang Lưỡng sinh năm 1932 quê tại tỉnh Bình Dương. Thời niên thiếu, học hết bậc Tiểu học tại tỉnh nhà ông lên Sài Gòn theo học tại Trường Trung Học Petrus Ký. Sau khi lấy bằng Thành Chung ông gia nhập vào quân đội và xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Đại Tá Lê Văn Phát…Ngay khi vừa mãn khóa vào ngày 1 tháng 06 năm 1954 ông tình nguyện sang Binh Chủng Nhảy Dù và được gởi ngay ra Bắc bổ sung cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với chức vụ Trung Đội Trưởng của Đại Ðội 52 ND. Từ đó ông đã trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung Đội Trưởng (Thăng cấp Trung Úy tháng 6/1956), Đại Đội Trưởng (Thăng cấp Đại Úy tháng 11/1963), Ban 3 Tiểu Đoàn rồi Tiểu Đoàn Phó.
Năm 1965 Ông được đi du học về "Tác Chiến Trong Rừng Núi Sình Lầy" tại Mã Lai Á. Tại quân trường ông đã trình bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các Huấn luyện viên đều chú ý và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Trong buổi lể xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lý Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đã Chủ Tọa và trao gắng cấp bậc Thiếu Tá cho Ông.
Sau buổi lể xuất quân, Tiểu Ðoàn 2 ND về trấn giữ vòng đai Biệt-Khu-Thủ-Ðô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đã đứng ra hướng dẩn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đã tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đã từng gây kinh hoàng cho các đơn vị CS không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác.
Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản tình báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến "Tổng Công Kích năm Mậu Thân" của CS. Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐIND ông được thăng cấp Ðại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới.
Kể từ đây, ông đã tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch Bình Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đã tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đã điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù.
Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đã được đưa vào chương trình nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lảnh lừng danh của Đức Quốc Xả vào đệ nhị thế chiến.
Trong trận chiến nầy ông đã phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của CS rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vở chiến thuật Chốt Kiềng của CS tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngỏ Sóc Gòn của An Lộc.
Đại Tá Lê Quang Lưỡng đã áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đã nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược.
Với kinh nghiệm lão luyên trên chiến trường của một "Quân Đội con nhà nghèo" với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đã sử dụng tài tình và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị CS, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng vòng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc.
Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ-Tá hành-quân cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc.
Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía Cộng quân cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho tổ quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975.
Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đã áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ324B, SĐ304 và một Trung Đoàn của SĐ2CSBV cùng các lực lượng địa phương.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đã mở đầu cho sự tan rã ồ ạt sau đó.
Hơn thế nửa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền xử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đã bị xé ra từng mãnh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lược bị tan hàng.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: "Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta mãi mãi căm hờn".
Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, đến năm 1979 ông cùng gia đình di chuyển về California thành phố Baker Field cho đến cuối đời.
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đã không chiều lòng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980.
Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đã qua đời tại Bakefield California vì chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ. Đến phút cuối, ông nhất định không cho phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên "quan tài của một bại tướng lưu vong", ông cũng trăn trối không nhận vòng hoa đưa đám, chỉ nhận tiền mặt để gởi về quê nhà giúp các đàn em thương tật. Tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và "Huynh Đệ Chi Binh" của người Anh Cả Mũ Đỏ không ai có thể cao hơn thế được.
Tại San Jose California, một Cựu Chiến Binh Nhảy Dù - Định Thế 405 - đã thương khóc ông:
"Người đi…
Cây cỏ buốt đau thương!!!
Anh hùng Lê Quang Lưỡng.
Bàng hoàng…Nghĩ chừng vô tưởng.
Vị Tướng lãnh hào hùng,
Dẫn đầu quân binh Mũ Đỏ.
Đã bỏ trần gian,
Vội vàng không giã biệt.
Âm âm lạnh, lòng nhói đau da diết,
Thương hơn thương, tử biệt cõi sinh phù.
Hởi Thiên Thần máu đỏ thắm thiên thu,
Tim bất khuất, đời Hoa Dù vay trả.
Nghiệp cả trả chưa xong,
Đục trong trời phiêu lãng.
Ba mươi năm,
Những buổi chiều bàng bạc.
Cánh hạc thẫn thờ bay,
Cuộc đời nầy đen trắng.
Cả quá khứ đầy hận thù cay đắng,
Quê hương ơi chất nặng nghiệp linh hồn.
Vó ngựa chân bon…
Những bồn chồn từng thu qua chết lặng,
Vệt nắng vàng hoang vắng gió heo may.
Việt Nam ơi ! cả dân tộc đang quay,
Trận bảo lốc hay cơn say nghiệt ngã.
Ba mươi năm,
Khắp địa cầu xa lạ.
Đoàn Thiên Thần nghiêng ngã dắt dìu nhau.
Gượng cười thôi tim quằn quại thương đau.
Mỗi một bước vạn cơn sầu gậm nhấm.
Ba mươi năm,
Vàng đỏ đen tím xậm,
Nét kiêu hùng vẫn ẩn chứa trong tim.
Chưa bao giờ ta thật sự đứng im.
Dù một phút, nghĩ, chìm trong dĩ vãng.
Nhưng hôm nay bầu không gian ảm đạm,
Quân kỳ buồn, rủ xuống tiễn anh linh.
Quốc kỳ bay, tung ngao nghễ không thinh,
Lệnh kỳ bó, vành khăn tang đơn lạnh.
Hoàng Hoa Thám, mùa Trung Thu hiu quạnh.
Vì toàn quân mất vị Tướng anh hùng.
Quê hương ta mất dũng sĩ tận trung,
Và Tổ Quốc mất người hùng Mũ Đỏ.
Ba mươi năm,
Chiến trường ta còn đó,
Tư Lệnh ơi…Ông bỏ chúng tôi rồi ! ! !
Thế là xong…Thật ngắn ngủi kiếp đời,
Thoáng đấy, mới đây, gió trời mưa đất.
Vùng trắc ẩn rồi ai còn ai mất,
Nghĩa tử ly, oan khuất mủi thương mình.
Định thế nào, là thảm bại quang vinh,
Thua hay thắng, thường tình trong dĩ nghiệp.
Mỗi Mũ Đỏ là lương tri thông điệp,
Để toàn dân phải ngưỡng mộ tri ân.
Họ đã tặng đời tim óc, xác thân,
Trong biển lửa, giữa gian trần bạc bẽo.
Cánh Dù rơi… Nơi xứ người lạnh lẽo,
Thiên Thần buồn réo khúc nhạc bi ai.
Cánh dù bung từng ôm cả chí trai,
Gom hoài bảo miệt mài trang dũng kiệt.
Kính ông Tướng…Trời tạm dung đơn độc,
Ngưỡng mộ anh hồn bay bổng sao băng.
Nơi mù xa vùng sinh tử trầm thăng,
Ông thanh thoát đất vĩnh hằng vô tận"
Vĩnh biệt Tư Lệnh.
Vĩnh biệt Đích Thân!!!
Đinh Thế - 405
Thường Đức / Trương Dưỡng
Vào mùa thu năm 1974, áp lực địch tại Vùng 1 Chiến Thuật gia tăng khủng khiếp. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các tư lệnh quân, binh chủng bàn kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn Quân Khu, đặc biệt những điểm "nóng" như Huế, Chu Lai, và Đà Nẳng.
Tại mặt trận Thường Đức, Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến thắng vẻ vang trên ngọn đồi 1062. Tướng Cộng Sản Nguyễn Thị Định đã tuyên bố sẽ vào Đà Nẵng như chỗ không người. Tuy nhiên, lời tuyên bố này đã bị lực lượng Nhảy Dù xóa sổ và niêm phong. Viên tư lệnh lực lượng Bắc Việt tại Thường Đức đã mất chức do bị thiệt hại nặng nề.
Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo vớiquân Bắc Việt, các binh sĩ Nhảy Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại làm hầm hố vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức. Những hầm chữ A để chống bom được đào sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở bằng vách đá và cây rừng cổ thụ. Đường giây điện thoại chằng chịt như mạng lưới điện thoại ở thành phố Saigon. Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phát giác.
Dẫu thế, Phòng Truyền Tin của Sư Đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt được những mật điện quan trọng của địch và đã giải hóa một cách dễ dàng. Nhờ vậy họ đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến Bắc Việt tại Thường Đức.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đã quần thảo với địch trên những đỉnh núi cao liên tục hầu như không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi trùng điệp, hiểm trở, và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của họ. Từ chân núi nhìn lên đỉnh cao vời vợi, người lính Nhảy Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó khăn. Một bịch gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật gay go, gian nan, và khổ cực (phải dùng dây kéo lên). Nhất là nước đâu để có thể nấu ăn trên những rặng núi cao ngất từng mây.
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Đình Chiến được ký kết tại Paris, chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng. Hai sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (ở tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các căn cứ Ann (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ Nam cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 22 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 lúc này tương đối yên tĩnh. Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi phạm Hiệp Ước, họ mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì nhiều, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ thủ khó công, Thường Đức ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh dùng để chuyển vận quân dụng tiếp tế cho mặt trần Thường Đức này.
Trong vòng 2 năm, Bắc Việt đã không ngừng tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh và biến thành hệ thống tiếp vận này thành một "xa lộ không đèn." Mặt đường rộng hơn 10 thước đủ cho xe xận tải di chuyển cả hai chiều. Ngoài ra Cộng quân còn lập hệ thống dẫn dầu từ Bắc vào Nam, đi đến tận thị xã Lộc Ninh (ở tỉnh Bình Long). Họ cũng tăng cường việc chuyển vận bộ đội chính qui, vũ khí, và chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần so với lúc trước. Tình hình Quân Khu 1 đổi khác ngay vào cuối năm 1974. Áp lực địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải Vân.
SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN
Ngày 8 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn trực thuộc được di chuyển vào vùng hành quân ở Đại Lộc thuộc Đà Nẵng. Trước đó một ngày, Tiểu Đoàn 79 Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bị quân Bắc Việt gây áp lực nặng nề tại vùng trách nhiệm ở quận lỵ Thường Đức. Ngày 11 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn được lệnh di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đặt bản doanh tại gần bờ biển Non Nước, phía Đông Thành phố Đà Nẵng.
Một dãy núi cao chạy dài từ sông Vu Gia và Liên Tỉnh Lộ 4 về phía Bắc, những ngọn đồi thấp ở phía Nam của dãy núi này đã bị Trung Đoàn 29 Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ. Cho nên, mọi tiếp tế của đơn vị Biệt Động Quân xuyên qua đèo Thường Đức đã bị ngăn chận. Điểm cao nhất của dãy núi này là 1235 nằm cách Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 cây số về phía Bắc, và đỉnh 1062 ở phía Nam của Ðồi 1235 cách chỉ khoảng 2 cây số.
Bắc quân đã chiếm đỉnh đồi này để có thể quan sát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức, và họ đặt tiền sát viên điều chỉnh đại pháo bắn chính xác vào khu dân cư và các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Lộc. Nhiệm vụ của các đơn vị Nhảy Dù là phải chiếm đỉnh đồi 1062 và các cao điểm phía Nam tới Tỉnh Lộ 4. Và để giải tỏa sự hâm dọa tấn công các vùng phía Tây Đà Nẵng, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức.
Ngày 18 tháng 8/1974, ba tiểu đoàn 1, 8, và 9 nhảy Dù vừa vượt tuyến xuất phát thì đã chạm súng với những đơn vị thuộc Trung Đoàn 29 CSBV ở phía Đông Đồi 52 (xã Hà Nha). Chính nơi đây Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã phải rút lui chiến thuật do áp lực địch quá đông đảo và vũ khí tối tân hơn. Sau một tháng đánh nhau với 3 tiểu đoàn Nhảy Dù, hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Mặt Trận B3 của Cộng Sản ra lệnh Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 CSBV tới Thường Đức để tiếp ứng cho Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 CSBV. Như vậy Trung Đoàn 66 có thế giúp đỡ Trung Ðoàn 29, để họ rảnh tay tấn công các đơn vị Nhảy Dù.
Đầu tháng 9/1974, Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV, còn được gọi là sư đoàn "Ðiện Biên") cũng nhập vào trận chiến. Ngày 19 tháng 9/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Trong khoảng thời gian 2 tuần lễ khi quân đội đã làm chủ ngọn đồi 1062, thì Bắc Việt cho Trung Đoàn 66 hợp với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 24 (thiếu quân số) định dùng số đông để áp đảo Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù.
Vào ngày 2 tháng 10/1974, Tiểu Đoàn 2 và 9 Nhảy Dù đang lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà thì họ tìm được khoảng 300 xác bộ đội Bắc Việt trên đỉnh 1062 trong giai đoạn 1 này. Ngoài ra, họ bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Ðoàn 304.
Suốt vài tuần sau, các binh sĩ Nhảy Dù đã chống trả rất nhiều các cuộc tấn công của Sư Ðoàn 304 khi địch quân định giành lại đồi 1062. Bởi sự điều khiển phi pháo chính xác của các sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, nên các đơn vị này vẫn giữ vững đồi 1062 mặc dầu quân Bắc Việt đã pháo kích mãnh liệt và xử dụng chiến thuật biển người định tràn ngập ngọn đồi này. Một trường hợp ngẫu nhiên, khi Trung Ðoàn 24 CSBV đang xâm nhập vào vùng tử địa ở dọc theo đồi 383 và 126 thì bị hỏa lực tập trung của pháo binh Việt Nam Cộng Hòa đồng loạt khai hỏa. Cuộc pháo kích này đã gây cho 250 bộ đội miền Bắc bị thiệt mạng.
Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với hai sư đoàn địch quân, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù (gồm 4 tiểu đoàn tham chiến) đã bị tổn thất vừa chết và bị thương khoảng 500 binh sĩ. Trong khi đó địch quân bị thiệt mất trên 1,200 người.
Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung Ðoàn 24 CSBV, sau khi được tái bổ sung và tái trang bị, đã mở một cuộc tấn công khác vào đỉnh đồi 1062. Họ dùng súng phóng hỏa đốt cháy dữ dội khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi này.
VNCTLS Ghi Chú: Sau khi đăng tải bài viết Mặt Trận Thường Đức một thời gian khá lâu, chúng tôi nhận được email của một cựu chiến binh Bắc Việt. Trong thư, ông cho biết đã từng tham gia trận đánh này từ đầu đến cuối. Và ông cũng cho biết thêm một ít chi tiết về trận đánh ở Thường Đức. Chúng tôi xin trích đăng một phần lá thư này cùng quý vị độc giả.
"Tôi là một người tham gia vào chiến dịch Thượng Đức từ đầu đến cuối, nhưng ở phía bên kia chiến hào. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bài viết của ông rất chi tiết về chiến dịch này. Trong đó ông chưa nêu được vai trò và thành tích của Không Quân VNCH. Họ đã gây không ít tổn thất, nếu không nói là nặng nề, cho phía chúng tôi trong khi tấn công căn cứ Thường Đức.
Một chi tiết không chính xác là Không Quân diệt được xe tăng của chúng tôi là không đúng, vì bên này chẳng có một chiếc xe tăng nào hết. Biệt Động Quân (Tiểu Đoàn 79) rất đáng khen là họ chiến đấu rất gan lì và không đầu hàng sau 9 ngày chống cự. Từ trận Dakpek, phía chúng tôi rút được kinh nghiệm dùng đại bác bắn trực xạ nên các trận chiến đều được áp dụng lối này, rất có hiệu quả như ông Dưỡng mô tả.
Tôi không đồng ý với ông Dưỡng là phía Bắc quân luôn dùng chiến thuật biển người. Tấn công Thượng Đức trực tiếp chỉ có Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304. Một trung đoàn của Sư Đoàn 324 (đã hạ đồn Dakpek) không trực tiếp tấn công, chỉ dàn quân chờ đánh tiếp viện. Sau khi lấy được Thường Đức, Trung Đoàn 66 thiệt hại 3/4 quân số và sau này là lược lượng chính tiếp cả 3 lữ đoàn Nhảy Dù. Trong trận lấy lại ngọn 1062 ngày 29 tháng 10 năm 1974, đại đội của tôi chỉ có 27 tay súng đã giành lại 1062.
Trận này, chúng tôi kéo 1 khẩu súng chống tăng 85 mm bắn trực xạ, súng 14.5 mm phòng không 4 nòng, hạ nòng yểm trợ bộ binh. Khi chiếm được 1062, chỉ còn 5 người trong đó có tôi, đến ngày 31 tháng 10 đại đội tôi chỉ còn 1 người trên đỉnh 1062.
Tôi đồng ý với ông (tác giả), tới thời điểm này cả hai phía đã hết "sinh lực." Nếu như quân Nhảy Dù còn sức, tôi nghĩ các ông có thể lấy lại Thường Đức. Phía bên này (Bắc Việt) không biết là các ông cũng đã "hết sinh lực" như ông mô tả, mà nghĩ là quân Dù phải rút đi để hỗ trợ cho Buôn Mê Thuột vừa bị thất thủ.
Mong chờ bài viết tiếp của ông, và cảm ơn.
Một cựu chiến-binh Bắc Việt tại mặt trận Thường Đức
(Trung Đoàn 66/Sư Đoàn 304)
Ngày 1 tháng 11/1974, Ðồi 1062 lại một lần nữa bị địch chiếm giữ. Trong khi ở Bắc Hải Vân, áp lực địch rất nặng vì quân Nhảy Dù bị rút đi. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng không chấp thuận đề nghị kéo quân Nhảy Dù về bảo vệ Bắc Hải Vân. Ông ra lệnh cho Tướng Lê Quang Lưỡng (tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) phải lấy lại Ðồi 1062 với bất cứ giá nào. Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 8 tháng 11/1974, và chỉ 3 ngày sau, các đơn vị Nhảy Dù đã chiếm lại đồi 1062.
Dẫu cho cuộc giằng co giữa hai bên còn kéo dài thêm vài tuần nữa, lực lượng Nhảy Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, cuộc chiến đấu đẫm máu nhất từ ngày ký Hiệp Định Ngừng Bắn coi như chấm dứt. Sư Đoàn Nhảy Dù bị hy sinh gần 500 chiến sĩ, và khoảng 2,000 người bị thương. Địch quân chết 2,000 và bị thương 5,000 người (theo tài liệu của Colonel William E. LeGro trong Vietnam from Cease-Fire to Capitulation).
Bảy tiểu đoàn Nhảy Dù đã lâm chiến suốt 3 tháng, và vào trung tuần tháng 10/1974, sáu tiểu đoàn đã lần lược ngự trị ngọn đồi máu 1062 này. Ðịch quân đã dòm ngó quân Nhảy Dù trên đỉnh 1235, nhưng Tướng Lê Quang Lưỡng không đủ lực lượng để kiểm soát luôn dãy đồi cao này. Ðồng thời địch quân vì tiêu hao quá nhiều nên cũng không dám trở lại tấn công đơn vị thiện chiến này của Việt Nam Cộng Hòa.
Vào cuối năm 1974, chỉ còn Tiểu Ðoàn 1 và 7 Nhảy Dù ở lại giữ vùng 1062 này. Họ đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm, khoảng 4 cây số phía Đông 1062. Mùa mưa đến, cả hai bên cần thời gian để chuẩn bị cho mùa khô kế tiếp.
DIỄN TIẾN CHI TIẾT
Cộng quân lần lượt tấn chiếm các xã, quận, và căn cứ quân sự của ta ở Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi. Sự việc mất các đồn lũy xảy ra thường xuyên. Câu nói thông thường lúc bấy giờ là "mất liên lạc. "Quận A mất liên lạc," "đồn B mất liên lạc, v.v." Mất liên lạc cũng đồng nghĩa với "di tản chiến thuật" hồi trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, và mọi người đều hiểu quân ta đã rút lui và địch đã chiếm mất rồi. Ngay cả khu đồng bằng Quảng Đà, nơi có bản doanh Quân Đoàn 1 và phi trường lớn Đà Nẵng cũng bị lay động, lâm nguy.
Quận lỵ Thường Đức bị "mất liên lạc," phi trường Đà Nẳng và bản doanh Quân Đoàn 1 thường xuyên bị pháo kích. Các đơn vị địa phương hầu như bị địch bao vây tấn công tràn ngập và mất liên lạc nhiều nơi. Áp lực địch nặng nề đến nỗi dân Đại Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau chạy ra thị xã Đà Nẵng.
Ngay khi hay tin Thường Đức bị thất thủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã biết rõ ý đồ của địch. Ông cho rằng chúng định lợi dụng địa thế hiểm trở chiến lược của vùng rừng núi trùng điệp xung quanh đồi 1062, bày binh bố trận để cầm chân các đơn vị thiện chiến tổng trừ bị. Do đó Tướng Trưởng đã cho lệnh di chuyển pháo binh nặng của Quân Đoàn 1, gồm các pháo đội đại bác 175 ly và 155 ly tới Đại Lộc, gần Thường Đức. Ðồng thời ông điều động 2 lữ đoàn Dù (không đủ quân số) vào tăng cường nhằm thanh toán hai sư đoàn chính qui Cộng Sản Bắc Việt. Đây là trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt kể từ khi Hiệp Định Ðình Chiến Ba Lê có hiệu quả vào ngày 27 tháng 1/1973.
Vào thời điểm 1973-74, biết mình không còn là lực lượng trừ bị để phản ứng khi cần, Tướng Lê Quang Lưỡng đã tâm sự với các sĩ quan tham mưu, "Lực lượng mình đang bị cầm chân dọc theo dãy Trường Sơn. Bây giờ nếu địch tấn công và chọc thủng phòng tuyến, tràn theo hành lang sông An Lỗ vào đồng bằng Trị Thiên. Anh em mình chắc chỉ còn đường ra biển."
Mối lo không có lực lượng trừ bị là một dằn vật thường trực với vị tướng tư-lệnh trẻ tuổi này. Quả vậy, đấy chỉ là nói giả dụ tới việc địch tấn công vào khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù thôi. Nếu địch thọc sâu cắt đứt đèo Hải Vân làm cho Nam, Bắc Hải Vân không còn tiếp ứng được cho nhau nữa thì sẽ ra sao? Chắc ước tính của Quân Đoàn 1 là cuộc tấn công sắp tới của địch sẽ theo trục Bắc-Nam giống như cuộc tấn công vào mùa hè năm 1972. Do đó, Quân Ðoàn 1 đã dồn nỗ lực đào hầm, đặt chướng ngại vật chống chiến xa ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, chuẩn bị phòng thủ rất chu đáo.
Riêng tướng Lê Quan Lưỡng và bộ tham mưu Sư Đoàn Nhảy Dù không đồng ý như vậỵ Cuộc tấn công lần này của địch chắc không tốn kém, hao tổn sức lực như năm 1972, mà chúng chỉ cần chọc mũi dùi thật lẹ và mạnh từ Tây sang Đông, cắt đứt khu vực Quân Đoàn 1 làm đôi ở đèo Hải Vân thì sẽ dụ lực lượng trừ bị tới giải tỏa. Như vậy coi như một chiến thắng đáng kể của họ rồi.
Với mối lo âu ấy, làm sao có được trong tay lực lượng trừ bị khá mạnh để có thể phản ứng ngay khi tình hình đòi hỏi? Và sau đây là kế hoạch để có quân trừ bị của Sư Đoàn Nhảy Dù:
Giảm quân số tại hậu cứ, các văn phòng, các đơn vị hành chánh, yểm trợ tiếp vận, và ngay cả trung tâm huấn luyện cũng phải giảm bớt để dồn ra vùng hành quân. Chuyển 2,000 thặng số quân y cho bệnh viện Cộng Hòa quản thúc (nhờ vậy quân đội có thêm hai ngàn binh sĩ để bổ sung và tăng cường). Tại khu vực hành quân, các tiểu đoàn cũng trích quân số để lập thành những đại đội đặc biệt.
Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù được chỉ định huấn luyện kỹ thuật tác chiến (từ quy ước tới không quy ước), ngay cả kỹ thuật đặc công, và được mang danh hiệu là các "Đại Đội Đa Năng."
Việc thành lập và huấn luyện các đại đội đa năng này làm các ông trong tòa Đại Sứ Mỹ quan tâm, thắc mắc nhiều. Các phái đoàn tùy viên quân sự ngoại quốc tới thăm Sư Ðoàn Nhảy Dù đều đặt câu hỏi về đơn vị đa năng:
• Ngân sách nào cung ứng để thành lập?
• Lập các đơn vị này để làm gì ?
• Có bao nhiêu đơn vị đa năng ?
• Ở cấp nào ? đại đội hay tiểu đoàn ?
• Tại sao lại gọi là Đa Năng ?
Ban tham mưu sư đoàn đã được Tướng Lưỡng ra lệnh cứ giải thích cho họ biết. Chính phủ và quân đội không mất đồng xu nào để có được các đơn vị này, kể cả trang bị. Tất cả đều nằm trong phương trình như x=a+b+c. Và chúng tôi có 12 đại đội đa năng trong Sư Đoàn Nhảy Dù. Nếu gọi các đơn vị này là "d" thì a+b+c+d cũng vẫn bằng x thôi.
Và cuối năm 1973, Sư Ðoàn Nhảy Dù đã có trong tay 12 đại đội đa năng dùng làm trừ bị. Lúc cần thành lập tiểu đoàn, lực lượng này sẽ là 3 tiểu đoàn hay một lữ đoàn trừ bị. Với lực lượng đa năng này, vùng đóng quân của bộ chỉ huy và bản doanh sư đoàn có thêm sự an toàn, có thể dẹp yên mọi quấy rối của địch, kể cả du kích ở hậu tuyến.
Tình hình tổng quát vào thời điểm giữa năm 1974: tình hình Bắc Hải Vân tương đối yên tỉnh, trong khi vùng Nam Hải Vân rất sôi động và nguy ngập. Thượng tuần tháng 7/1974, Sư Ðoàn Nhảy Dù nhận được lệnh khẩn cấp từ Quân Đoàn I là đưa ngay lực lượng Nhảy Dù vào Quảng Đà, chỉ để lại một lữ đoàn ở Bắc Hải Vân cho dân chúng khỏi hoang mang rúng động.
Tướng Lưỡng lệnh cho Sư Đoàn Nhảy Dù gồm Lữ Ðoàn 1 và 3 vào Đà Nẵng. Trước khi đi ông nói với ban tham mưu: "Mình sẽ vào Đại Lộc. Lấy được quận Thường Đức địch sẽ đánh thẳng vào Đà Nẵng!"
Chỉ tay vào bản đồ Tướng Lưỡng nói tiếp:
- Sau khi các bộ phận của mình đã vào tuyến xuất phát. Ta sẽ cho nỗ lực chính tiến theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính sẽ là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng cho Lữ Ðoàn 1.
Tình hình quân Bắc Việt lúc bấy giờ là Sư Ðoàn 324 đang chiếm đánh Thường Đức. Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và một tiểu đoàn Đa Năng ở lại trấn giữ phía Bắc đèo Hải Vân. Trên phương diện tình báo, khi các cánh quân Nhảy Dù tới tuyến xuất phát, kiểm thính qua giàn máy vô tuyến điện báo của sư đoàn. Bất ngờ vào đúng tần số liên lạc của đối phương. Nghe chúng báo cáo với nhau như sau:
"Ngụy Dù đang ở Tây Đại Lộc. Tiểu Ðoàn 1 tại xã..., Tiểu Ðoàn 9 đang di chuyển từ A tới C. Tiểu Ðoàn 8 đang ở làng..."
Báo cáo của địch rất chính xác về vị trí của các đơn vị Nhảy Dù. Đại Úy Phước, sĩ quan truyền tin sư đoàn, ngoài đặc tính siêng năng, cần mẫn, và cẩn thận, anh còn rất thích thú dò tìm tần số liên lạc của địch. Khi những báo cáo của chúng ngưng, anh lại rà máy tìm ra địch ở tần số khác và tiếp tục nghe được các báo cáo của chúng về Nhảy Dù.
Biết được như vậy, Tướng Lưỡng sửa đổi kế hoạch. Ông cho lệnh Lữ Ðoàn 1 cứ để các tiểu đoàn chính ở chỗ mà địch đã biết, ông tung các đại đội Đa Năng 19, 21, 27 bất ngờ tấn chiếm các cao điểm; di chuyển về trái, tiến sâu về phải. Cứ hoán chuyển vị trí liên tục cho đến khi tới sát được Thường Đức. Và các báo cáo của địch sau này cho thấy có sự bỡ ngỡ, hoang mang. Nghe địch hỏi nhau là các đơn vị của Dù hay của các đơn vị khác tới tăng cường?
Hết lệnh cho các Đại Đội Đa Năng 19, 21, 27 lại đến lệnh cho Đa Năng 1, 2, 3... tung quân đột kích nhiều hướng. Thế là địch không còn báo cáo chính xác vì sự biến hóa linh động của các đơn vị này.
Trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa ta và địch kể từ khi có Hiệp Định ngưng bắn 27 tháng 1/1973, khi Lữ đoàn 1 Nhảy Dù và các đơn vị tăng cường xuất trận vào thay thế Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 Bộ Binh.
Ngay khi đoàn xe chở quân vừa tới làng Hà Nha 1 ở dưới chân núi cách Thường Đức 10 cây số về hướng Đông, Cộng quân đã pháo kích bằng nhiều loạt đạn khác nhau. Một số dân chúng chạy theo lính Địa Phương Quân, thấy Nhảy Dù đến liền ngừng lại. Một niềm tin mãnh liệt chợt bừng lên đối với những người dân khốn khổ sống trong vùng rừng núi hoang vu này. Đi đâu thì cũng "đất cày lên sỏi đá!" Họ chỉ có một hy vọng nhỏ nhoi là trở lại sinh sống trong những căn nhà tranh với những luống ngô khoai bên triền núi cao, mà họ đã đổ mồ hôi canh tác trong nhiều tháng qua.
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Khóa 15 Ðà Lạt (lúc đó là lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù) một sĩ quan trẻ tuổi tài ba. Ông từng lập nhiều chiến tích trong sư đoàn Nhảy Dù, trận Đại Bàng 800, trận Mậu Thân, trận Hạ Lào, hành quân tái chiếm Quảng trị. Nhất là trận An Lộc ở tỉnh Bình Long, ông đã chỉ huy Tiểu Ðoàn 6 đổ bộ trực thăng vào Đồi Gió, sau đó đã mở đường máu từ Tân Khai, Xa Trạch, lên Xa Cam bắt tay với Tiểu Đoàn 8 trong thị xã An Lộc.
Trong Giai Đoạn 1, Trung Tá Đỉnh ra lệnh Tiểu Đoàn dọc theo Tỉnh Lộ 4 chiếm làng Hà Nha và bảo vệ cánh trái. Đại Ðội 83 của Đại Úy Hiệu được lệnh đánh chiếm hai làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 để giải tỏa đồn Địa Phương Quân, cứ điểm cuối cùng của lực lượng phòng thủ trong quận Đại Lộc này. Khi vừa gần tới bờ làng, họ gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch. Thấy đơn vị vừa mới xuống xe, binh sĩ chưa ăn uống, bên kia sông Việt Cộng lại đặt đại bác không-giật bắn vào, Ðại Úy Hiệu đề nghị rút lui để cho Pháo Binh dập, nhưng Thiếu Tá Vân (tiểu đoàn trưởng của Tiểu Ðoàn 8) sợ dân làng bị liên lụy nên thúc Hiệu cứ tấn công vào.
Chấp hành lệnh, Hiệu dàn cả hai trung đội xung phong thần tốc, địch hốt hoảng bỏ chạy. Ta chiếm được làng Hà Nha với một giá rất đắt: hai trung đội trưởng tài giỏi nhất của Hiệu là Thiếu Úy Tiến và Thiếu Úy Thành bị hy sinh. Đại Úy Hiệu hoàn thành nhiệm vụ nhưng lòng rất xót xa.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù chiếm đỉnh cao Đông Lâm trên dãy Sơn Gà bảo vệ sườn phải. Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đi trục chính đánh chiếm đám rừng tràm, hướng về mục tiêu là Ðồi 1062.
Giai đoạn 2, Tiểu Đoàn 8 làm nỗ lực chính, chia quân hai cánh, cánh phải do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy tiến về hướng điểm C thay thế Tiểu Ðoàn 1 trên đỉnh Sơn Gà, mục tiêu là đồi 1062.
Thiếu Tá Vân cho lệnh Đại đội 81 của Đại Úy Võ Thế Hùng đi đầu. Bọc hậu có Đại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm." Tiểu đoàn trừ do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy, anh cho Đại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu đi chính diện, và Đại Úy Đồng Văn Minh dẫn đại đội 84 đi sườn phải, tiến lên hướng 1062.
Thành phần nỗ lực chính của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung trận, khi các đơn vị vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, thì chạm địch mạnh với quân số áp đảo, họ phải giành giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức.
Đoạn đường dài hơn 5 cây số, bên trái là sông Vu Gia, bên phải là những triền núi thuộc dãy Sơn Gà. Chiến xa và pháo binh Cộng Sản bố trí bên kia sông có lẽ để giữ Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Chủ lực quân của địch tập trung trên các đỉnh cao phía sau quận Thường Đức. Họ đang chiếm giữ các đỉnh 1062, điểm cao 1235, 383, 293, 126, và đóng chốt dọc theo các sườn núi.
Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
Giai đoạn đầu, đội hình tấn công của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù như sau:
• Tiểu Đoàn 9 giữ trục chính ở giữa
• Tiểu Ðoàn 8 đi cánh trái, dọc theo trục lộ sát bờ sông Vu Gia, tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52)
• Tiểu Ðoàn 1 đi cánh phải, tiến chiếm cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Gà tiến hướng Tây tới 1062.
• Tiểu Ðoàn 9 giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi che phủ.
Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn (đại đội trưởng Ðại Ðội 92), Trung Úy Thăng (đại đội trưởng Ðại Ðội 94), Đại Úy Trọng (đại đội trưởng Ðại Ðội 91), cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tửu muốn đến đồi 383 để tiến sát tới đỉnh 1062, họ còn phải băng qua một cánh rừng tràm nữa. Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9không sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân nên Đại Úy Tường từ Ðại Ðội 90 ra thay thế.
Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, từ Hội An được lệnh di chuyển đến bàn giao với Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại một đồi thấp ở phía Nam Đông Lâm khoảng 3 cây số. Họ đi cánh phải của Lữ Đoàn, mục tiêu đầu là đỉnh Đông Lâm. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của quân Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn.
Thiếu Tá Quý (tiểu đoàn phó) chỉ huy 2 đại đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà. Một trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại "mìn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Ðại Ðội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì mìn hơi này.
Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Dù hoàn toàn thụ động trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những đỉnh đá.
Một điều quan trọng là tiền quân của Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Thể đã tìm được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đã chết (cụt chân do mìn hơi) và một người còn sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đóvị trí các lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa.
Đáng lý theo dự tính, Đông Lâm là điểm hẹn giữa Ðại Ðội 11 của Ðại Úy Thể và Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ đi với Thiếu Tá Quý. Nhưng vì không chạm địch nên hai đại đội này trực chỉ tới mục tiêu B.
Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Ðoàn 1 (lợi thế hơn 2 cánh quân bạn) tiến quân trên đường đỉnh dãy Sơn Gà. Ðịa thế đủ rộng cho hai đại đội đi đầu, và tốc độ tiến quân cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn 1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho lữ đoàn. Quả thật vậy, qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho cho lệnh Đại Ðội 11 "đạp" xuống cứ điểm B, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Ðoàn 9.
Xuyên qua thung lũng, Ðại Úy Thể dẫn quân đến B một cách bất ngờ, và ở ngay sau lưng địch. Đối diện với Cộng quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, Đại Ðội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Quân Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, Ðại Ðội 11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. Sau này Tiểu Ðoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Trời đà chạng vạng tối, chờ bắt tay mãi với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Một biến cố xảy ra đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến hy sinh đêm đó. Sáng hôm sau, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14 bắt tay với Ðại Ðội, đồng thời Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Có lẽ cứ điểm C mới thật là một tiền đồn mạnh mẽ của quân Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch trước khi tới C. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của Đại Úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Công sự phòng thủ của địch thật vô cùng kiên cố, lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn. Ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn.
Suốt 3 ngày cầm cự, Ðại Ðội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Ðại Ðội 11 bám sát tiến lần vào cách C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu đạn. Nhờ địch tưởng ta tấn công mặt Nam, nên Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quý cho tập trung 5 khẩu đại liên M-60, chờ bắn hơi cay cho địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
Ðại Ðội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Ðại Ðội 11 và Ðại Ðội 14 phải trả giá rất đắt cho đỉnh 1062.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở: rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Tình thế hiện tại thật bất lợi. Lúc đó Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố.
Lúc bấy giờ ta chưa biết là có 5 đỉnh nhỏ trên 1062, vì bản đồ chỉ có một dấu chữ thập bên cạnh số 1062. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng cảm tử gồm 2 trung đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một trung đội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một trung đội của Ðại Ðội 11. Đây là 2 sĩ quan xuất sắc đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho tiểu đoàn. Ðại Ðội 11 (thiếu quân số) làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Ðại Ðội 11 do Thiếu Tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm táu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình.
Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của bên đó nghe rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch. Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (tiểu đoàn trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Sau nầy mới biết là Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D. Đáng phục thay một binh sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận núi sông.
Các binh sĩ thuộc hai trung đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Địch định lấy thịt đè người. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) một phen vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách chọn lựa nào khác.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Nhờ vậy các binh sĩ Ðại Ðội 11 được giải tỏa, xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi ngày mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062, nhưng D1 và D2 ở phía Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì thế Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và sợ nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị cháy thành than như đã nói ở phần trên.
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy (37) bị thương trong đó có Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An (sĩ quan Khóa 26 Đà Lạt).
Trong khi đó bên Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ (sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt) và Ðại Ðội 15 của Đại Úy Lộc (sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt) đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (truyền tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Bước tiến quân của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù trong giai đoạn đầu đến sát chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù. Sau đó Thiếu Tá Phú "đen" đến thay thế làm tiểu đoàn phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù.
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ Quảng Trị về nghỉ dưỡng quân và tái trang bị được 2 tuần thì có lệnh đi hành quân trở lại, vùng hành quân là Thường Đức. Đúng 6 giờ sáng, tại trại Trần Quy Mại, đơn vị được trang bị đầy đủ cấp số đạn dược, quân trang, quân dụng, lương thực. Những người lính lên xe GMC ra phi trường Tân Sơn Nhất. Năm chiếc vận-tải cơ C-130 chở quân đáp xuống phi trường Đà Nẳng độ 12 giờ trưa, và đoàn xe vận tải GMC chở họ đến quận Đại Lộc.
Trong khi binh sĩ lo nghỉ ngơi, nấu nướng, thì các sĩ quan từ đại đội trưởng trở lên vào họp khẩn cấp về cuộc hành quân giải tỏa quận Thường Đức. Sau khi mọi người đứng dậy chào vị chủ tọa là Tướng Lê Quang Lưỡng, các sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Phòng 4 thuyết trình chi tiết về cuộc hành quân.
Tướng Lê Quan Lưỡng trực tiếp ra lệnh các đơn vị:
- Các anh phải chiếm các cao điểm và đánh bật địch ra khỏi khu vực nầy. Muốn như vậy các anh phải đánh địch từ đàng sau lưng, hoặc bọc ngang hông để cắt đứt đường tiếp tế và viện binh.
Ông vừa nói vừa chỉ lên bản đồ hành quân và tấm bảng đen chỉ rõ rành mạch. Đây là lần đầu tiên các sĩ quan cấp nhỏ được nghe lệnh trực tiếp từ vị tư lệnh sư đoàn, mọi người đều hiểu rằng cuộc hành quân nầy thật quan trọng và đầy cam go.
Sau thời gian họp khoảng 45 phút, các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 tiếp tục lên xe chạy tới điểm xuất phát cách làng Hà Nha độ 1 cây số về hướng Đông. Lúc đó vào khoảng 5 giờ 30 chiều cùng ngày, Ðại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu, sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt, được lệnh đánh chiếm Hà Nha. Ðại Ðội 84 của Đại Úy Đồng Văn Minh, sĩ quan Khóa 26 Thủ Ðức đi cánh phải chiếm ngọn đồi nhỏ ở phía Bắc Hà Nha.
Hiệu cho lệnh Trung Đội 1 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (tự Tiến Trâu) dẫn đầu, cho tổ khinh binh dọc theo bờ sông di chuyển theo đội hình chân vẹt yểm trợ cho nhau tiến vào làng. Trung Đội 2 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Thành đi cánh phải kẹp theo Tỉnh Lộ 4 tới dàn quân tại gò mả, sẵn sàng yểm trợ Trung Đội 1.
Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức và Trung Đội 4 của Chuẩn úy Thạch Huôn làm thành phần trừ bị. Lúc mới xuống xe, Hiệu gặp một tiểu đoàn thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa từ Thường Đức đi ra, trong đó có một đại đội trưởng là Trung Úy Nguyễn Văn Nghĩa, sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt. Hai bạn cùng Trường Mẹ gặp nhau mừng mừng lo lo, Nghĩa bảo Hiệu:
- Niên Trưởng phải cẩn thận, địch đông lắm, chúng đang bám sát tụi tôi, chúc "chiến thắng."
Trước khi vào mục tiêu, Hiệu nghe máy gọi:
- Đa Hiệu đây 808 (danh hiệu của Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Vân), trả lời.
- Đa Hiệu (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Phạn Văn Hiệu) tôi nghe đích thân.
- Lệnh trên bảo anh phải thanh toán mục tiêu ngay bây giờ, anh là "cử nhân binh bị" (Võ Bị 4 năm tương đương bằng cử nhân) không thể chậm trễ đừng làm mất mặt nghe.
Khi Trung đội 1 vào gần tới bờ làng thì quân Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Tiến dẫn toàn bộ trung đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Hiệu cho bố trí và làm hầm hố phòng địch phản công. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác, một xe GMC của Sư Đoàn 3 Bộ Binh chạy lộn chiều ngang qua Ðại Ðội 83, lập tức bị bắn cháy, tài xế may mắn chạy khỏi vô sự.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ có hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Tiến và Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân Bắc Việt cứ nhào tới định lấy thịt đè người tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai anh ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời 2 người hùng của Ðại Ðội 83.
Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số ít tù binh.
Cũng nên nhắc lại rằng làng Hà Nha 1 và 2 là những làng rất nghèo nàn, có khoảng 20 căn nhà (nói là nhà nhưng thật ra đó chỉ là những túp lều tranh nhỏ bé), địa thế trống trải, nên xạ trường quan sát của địch rất tốt, Cộng quân bắn trực xạ bằng đại bác thật chính xác. Chính sĩ quan và một số binh sĩ ta đã bị tổn thất vì loại súng trực xạ này.
Ở làng Hà Nha khoảng 4 ngày, Ðại Ðội 83 được bổ sung hai sĩ quan và một số binh sĩ mới (trong đó có Thiếu Úy Tiến, Hại Sĩ Hải, và Binh Nhất Châu Văn Lê) để chuẩn bị làm nỗ lực chính tấn chiếm đỉnh 1062 sắp kể sau đây:
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Đại Úy Hùng vừa đi học khóa Đại Đội Trưởng ra tăng cường hành quân. Hùng xuất thân từ gốc Thiếu Sinh Quân, anh rất gan dạ đã sát cánh cùng các Đại Úy Minh, Hiệu, và Trung Úy Nam từng lập nhiều chiến tích ở các cuộc hành quân Hạ Lào, Cam Bốt, và An Lộc.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, sĩ quan Khóa 13 Thủ Ðức, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiên 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu là đỉnh đồi 1062. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán, sĩ quan Khóa 18 Ðà Lạt, chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, sĩ quan Khóa 26 Ðà Lạt, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị thương.
Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (từ Đại đội 84 chuyển qua bổ sung cho Tiến "trâu" và Thành vừa hy sinh ở làng Hà Nha) dẫn Trung Ðội 3 của Hiệu đi bọc phía sau định leo lên mục tiêu D. Bỗng nghe bịt, bịt, bịt, ba trái lựu đạn từ trên đỉnh 1062 ném xuống mà tịt ngòi không nổ. Nhưng quả thứ tư trúng ngay Tiến, làm thân hình anh bị tung lên như quả bóng. May nhờ áo giáp nên chỉ bị thương nặng và được binh sĩ kéo về phía sau và phải di tản.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, thảm nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.
Để biết rõ chi tiết trận chiến, chúng ta hãy theo một đơn vị cấp đại đội (Ðại Ðội 83) làm cách nào để đánh chiếm đồi 1062:
Hiệu dẫn đại đội xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng mỗi lần hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Ngày N+4 (sau 4 ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù), vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để phòng thủ.
rợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Tiểu Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (tiểu đoàn trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (tiểu đoàn phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi.
Chiều hôm đó, một buổi chiều nắng vàng và gió lộng, không còn tiếng nổ trong trận địa, những mỏm núi bốc lên những sợi khói nhỏ, nóng không phải vì hơi oi bức của mặt trời mà là âm ỉ của hơi thuốc súng chưa kịp tan.
- "Thiếu Tá." Binh sĩ truyền tin của Trương Văn Vân nói. "Đại Úy Đàng gọi."
- Trình đích thân, từ sáng giờ yên tĩnh nhưng binh sĩ tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi.
Vân nói:
- Anh cho các con gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế phòng địch tấn công bất ngờ.
- Nhận rõ, đích thân.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của đại đội Đàng. Trong nắng chiều, Vân và Bộ Chỉ Huy đứng trên đỉnh 1062 theo dõi châm chú trận đánh của Đại Ðội 34. Cối 75 ly và sơn pháo từ những cao độ phía tây bắc bắn từng nhịp 4 trái một và bộ đội Bắc Việt từ hướng tây, tây bắc, đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Binh sĩ của Đàng thi nhau dùng súng phóng lựu từ đồi cao 1063 bắn xuống. Một quả đạn bay đi khoảng ngắn, đất cát bay lên, 3 cán binh Điện Biên mất hút trong bụi mù. Chết, sinh Bắc tử Nam.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt, với chiến thuật biển người. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Úy Ngụy Văn Đàng đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1063 và đồi không tên. Đỉnh 1062 trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn. Và trong hoang vu hấp hối của cỏ cây đó, hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên, những bộ đội Bắc Việt vang danh một thời cùng ào lên 1062 một lượt, những cặp chân đã vượt đèo Mụ Già qua Tchepone, Lao Bảo, những bàn chân rách nát chạy nhanh hơn, mau hơn. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
- Bom! Bom! Đốt cháy tụi nó cho hết. Trung Tá Đồng nói như thét.
- Yes sir! Anh Sĩ quan liên lạc không quân vừa nghe được tiếng "bom," và anh đã lập tức gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống sườn đồi.
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt tràn lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục. Địch bị tiêu hao nhiều do đạn pháo kích TOT (Time On Target, tức là pháo binh bắn tập trung vào một mục tiêu, cùng một lúc) nên tức giận chĩa lưỡi lê đâm nát thân thể Đại Úy Đàng.
Đại Ðội 34 của Đại Úy Võ Thiên Thư, (Khóa 25 Võ Bị Ðà Lạt), lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Võ Thiên Thư, Tô Văn Nhị (Khóa 26 Võ Bị Ðà Lạt) đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, tiểu đoàn phải rút ra để phi pháo bắn ngày đêm. Mặc dù Cộng quân đã chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, nhưng phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Các loại đạn CVT (Controlled Variable Time, tức loại đạn pháo binh từ trên cao chụp xuống điểm tập trung của địch quân), cùng đạn nổ dọn bãi cho Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù vào thay (Tiểu Đoàn 9 vừa rút ra một ngày chưa kịp trang bị bổ sung đã được lệnh cấp tốc trở lại tiếp ứng Tiểu Ðoàn 3). Tiểu đoàn 9 Dù cũng dùng chiến thuật dương đông kích tây, và nỗ lực chính kỳ nầy do Đại Úy Tường (đại đội trưởng Đại Đội 93) và Trung Úy Nhơn (đại đội trưởng Đại Đội 92) tiến đánh từ trên cao xuống.
Bên sườn dốc đứng, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ cho bày binh bố trận rùm beng, khiến phía Bắc Việt tưởng Nhảy Dù lên mặt nầy nên bắn giàn thung buộc giấy khiêu chiến: "Thách ngụy Dù lên đánh."
Tường biết địa thế đồi 1062 kiên cố, hầm hố toàn bằng những thân cây rừng to lớn, phi pháo không làm gì được. Anh vội phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc Bắc quân chui ra khỏi hang rồi xin thả bom lửa Napalm đốt họ tan tành. Anh không dại xua quân vào miệng cọp, chỉ dùng đạn cay và bom Napalm, rồi bao vây chận nguồn nước và tiếp tế, khiến địch chịu không nổi. Hai bên cứ giằng co chiếm qua chiếm lại mỗi bên 2, 3 lần và quân số 2 bên tiêu hao rất nhiều.
Đỉnh đồi 1062 lúc đầu toàn là rừng cây cổ thụ, sau những ngày 2 bên thay nhau làm chủ, nay trở thành đồi trọc, xơ xác, tan hoang.
Tiểu Đoàn 9 phải bằng mọi giá quyết xung phong nhào lên chiếm đỉnh nầy. Gần một tuần lễ sau, với nhiều cuộc chiến đấu ác liệt bằng phi pháo, lưỡi lê, và lựu đạn, đã tiêu diệt toàn bộ địch trên đỉnh đồi. Các đơn vị chiếm được những đỉnh cao xung quanh 1062 nhưng với sự trả giá rất đắt. Ba vị sĩ quan của Đại Úy Trọng bị hy sinh, Đại Úy Tửu bị thương, các đại đội khác đều bị hao hơn phân nửa quân số.
Sau khi ra Hà Nha hơn 1 tháng, Đại Đội 15 của Đại Úy Lộc và Thiếu Tá Phú nhập vùng, biệt phái cho Tiểu Đoàn 9. Riêng Đại Đội 11 nghĩ được 2 tuần thì được lệnh di chuyển ra BCH/LĐ1ND (Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù), và tại đó được trực thăng Chinook bốc vào mục tiêu "B" tăng cường cho Thiếu Tá Phú để thanh toán mục tiêu "D1" và "D2" nhằm giải tỏa áp lực cho Tiểu Đoàn 9 đang ở đồi 1062.
Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen", Khóa 19 Võ Bị Thủ Đức) là một sĩ quan rất can trường và tháo vát. Anh là một trong những con gà giỏi của Tướng Lê Quang Lưỡng khi ông còn làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Thiếu Tá Phú sử dụng tối đa các phi tuần A-37 vì độ chính xác thấp. Trong lúc họp, Đại Úy Thể đưa ra đề nghị đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách đi vòng qua thung lũng thay vì đi theo yên ngựa (do kinh nghiệm lần trước tấn công mục tiêu B và C.).
Thiếu Tá Phú theo kế hoạch này ra lệnh cho Đại Đội 11 và Đại Đội 15 xuyên qua thông thủy tiến sâu về phía Bắc, rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2. Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, kết quả: Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy địch thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Trung Tá Nguyễn Đình Ngọc (tiểu đoàn trưởng), Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt, lúc đó đang đi phép vì ông thân sinh vừa qua đời, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Khóa 20 Võ Bị Đà Lạt, lên làm tiểu đoàn trưởng, cùng Đại Úy Nguyễn Hiền Triết, Trưởng Ban 3, đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (tiểu đoàn phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Phương cho các đại đội tung người ra lục soát, cánh Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn trung đội tiến tới chiếm chốt phòng-thủ mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức.
Địch chiếm lại chốt đó và lại đặt súng đại liên bắn vào vị trí Nhảy Dù. Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Lân cũng hy sinh. Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai thèm đến vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Hạnh lên làm tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm tiểu đoàn phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (tiểu đoàn trưởng), Khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, và Thiếu Tá Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm tiểu đoàn phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương đông kích tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Kính tặng các chiến sỉ QLVNCH trong mặt trận Thường Đức
Giặc qua sông Côn về Thường Đức
Trong cơn gió lạnh cuối Trường Sơn
Quân ngược dòng sông đêm thao thức
Di binh chuyễn pháo tấn công đồn
Anh Biệt Động Quân đêm phòng thủ
Nhìn qua ánh sáng lổ châu mai
Thêm một đêm dài không giấc ngủ
Khói thuốc cay mờ trong mắt ai
Anh lính địa phương trong lô cốt
Tay cầm ống phóng bảy mươi hai
Bên xóm nhà xa đèn ai đốt
Lập lòe ánh lửa bóng liêu trai
Anh lính Pháo Binh ghi tọa độ
Sẵn sàng yểm trợ pháo tầm xa
Chùi súng ,thông nòng lo tu bổ
Tay sờ thép lạnh ướt sương pha
Anh Thiết Kỵ về đường liên tỉnh
Băng ngang Đại Lộc đến Hà Nha
Vó câu dong ruổi như đời lính
Từ độ lửa binh chẳng về nhà
Anh lính Không Quân từ Đà Nẵng
Phi pháo từng đêm chận giặc về
Có lẻ đêm nay anh thức trắng
Đợi chờ phi vụ đắng cà phê
Anh Nhảy Dù về từ Quảng Trị
Ba lô ,súng đạn tới Cầu Chìm
Nhận đồ tiếp tế trên chiến lủy
Nghe hờn sông núi dậy trong tim
Đại pháo từng đêm trên chiến trận
Xe tăng , bộc phá mở hàng rào
Anh vẫn hiên ngang làm bổn phận
Quê mẹ vì ai tẩm máu đào
Hơn ba mươi năm ngày lịch sữ
Thường Đức quê tôi những ngày buồn
Cũng bóng tre xanh người Thượng nữ
Vu Gia sông cũ nước xuôi nguồn
Tôi nhớ ơn anh người lính chiến
Tháng ngày bảo vệ xóm làng tôi
Những kẻ hy sinh trên trận tuyến
Ngàn sau còn nhớ mải không thôi .
SVSQ Lê Chiến khóa 8/72 SQTB
Binh Chủng Nhảy Dù 20 Năm Chiến Sự Cập nhật 15/11/2008
Mặt Trận Thường Đức
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
Sau khi Hiệp Định Paris được ký kết tại Paris vào cuối tháng 1/1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu. Hai sư đoàn Tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn bị lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, và từ sông Mỹ Chánh ra đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa tới tận chân dãy Trường Sơn, các căn cứ Anne (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến lược chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ An Lổ,cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) về phía Nam là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 sau ngày ký hiệp định tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không có phản ứng, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Song song với việc Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của QL-VNCH đồng thời ào ạt di chuyễn bộ đội trên đường mòn HCM vào các quân khu 2 và 3. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược nhờ địa thế núi rừng hiểm trở.
Thường Đức là một trong 9 quận của tỉnh Quảng Nam (Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang và Hiếu Nhơn), được thành lập năm 1962, tách ra từ quận Đức Dục, nằm trong thung lủng Hà Tân, một khu vực nghèo nàn khô cằn sỏi đá ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 60 cây số, và phía Tây là vùng rừng núi trùng điệp chạy dài tới biên giới Việt - Lào khoảng 50 cây số. Đây là tiền đồn chiến lược bảo vệ căn cứ quân sự và phi trường Đà Nẵng, một trong những căn cứ lớn nhất của VNCH.
Địa hình Thượng Đức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng đứng. Phía Đông bằng phẳng, từ quận Điện Bàn trên giao điểm Quốc lộ 1, Liên tỉnh lộ 4 chạy dọc theo sông Vu Gia dẫn vào Thường Đức dài khoảng 40 cây số, đường sá rất hiểm trở. Quận lỵ Thường Đức nằm ngay ngã tư Liên tỉnh lộ 4 và Quốc lộ 14 và cũng là nơi hợp lưu của hai con sông Côn và sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang Đông. Chính phủ VNCH cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam. Vùng chung quanh đường 14 có bộ lạc Katu sinh sống.
Trước kia Lực Lượng Ðặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ đã xây dựng và để lại một căn cứ phòng thủ chiến lược với hệ thống giao thông hào liên hoàn trong căn cứ cùng với 35 lô cốt nửa chìm nửa nổi, mỗi lô cốt rộng bốn mét, xây dựng bằng xi măng cốt thép bao bọc hai lớp bao cát đặt ngang ở giữa, nhiều công sự có nắp và một hệ thống nhà hầm và hầm ngầm. Khu thông tin, chỉ huy pháo binh, bệnh viện, kho đều nằm sâu trong lòng đất. Trong khu vực nhà ngầm được chia thành nhiều phòng. Lực lượng VNCH ở Thượng Đức có Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng, hai đại đội Địa Phương Quân, một đại đội Cảnh Sát Dã Chiến, một trung đội Viễn Thám và 16 trung đội Nghĩa Quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Quốc Hùng, quận trưởng.
Về mặt chiến lược Thường Đức còn là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát, khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Đông mà CSBV vừa mới khai dựng sau ngày ký hiệp định 27/1/1973. Từ phía Bắc quân dụng và chiến cụ theo đường mòn HCM đưa từ A-Lưới đến A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên LTL 4 cách Thường Đức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn trử quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm.
Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Đức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng tăng viện viện trợ quân sự cho Sàigòn. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và hỏa lực yểm trợ của chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù).
Đối với Việt Nam Cộng Hòa, trận chiến Thượng Đức đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay cộng sản sau ngày ngưng bắn. Đại Lộc và Đà Nẵng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.
Lực lượng địch tham chiến gồm có :
- SĐ324B gồm các Trung Đoàn 29, Trung Đoàn 6 & Trung Đoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam
- SĐ304 Điện Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, Chính ủy là Trần Bình chỉ huy trực tiếp trận chiến. gồm 3 Trung Đoàn 66, 24 & 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thượng Đức.
- Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến.
- 2 Tiểu Đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà
- Một Trung đoàn Pháo và Trung đoàn Chiến Xa.
Lực lượng địch quân tham gia tác chiến chủ yếu ở Thường Đức là Sư Đoàn 304 với Trung Đoàn 66 được tăng cường Trung Đoàn 29 (còn gọi là Trung Đoàn 3) /Sư Đoàn 324, Tiểu Đoàn 1/Lữ Đoàn 219 Công Binh, một đại đội tên lửa A72 (SA-7) và một đại đội tên lửa B72 (AT-3), tất cả từ Quân Đoàn 2 cùng hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà. Các đơn vị của Quân Đoàn 2 đã được cơ giới trên con đường chiến lược mới mở Đông Trường Sơn từ thung lũng Ba Lòng (Quảng Trị) xuống. Riêng Trung Đoàn 3/ Sư Đoàn 324 vừa mới được cơ giới từ thung lũng A Shau (Thừa Thiên) xuống tham gia đánh trận Dak Pek, sau đó đã cơ động trở lại Quảng Nam đễ tham gia chiến dịch Thường Đức.
SA-7 và AT-3 đều được gọi là "tên lửa" (hỏa tiển), nhưng công dụng khác nhau. SA-7 là hỏa tiển phòng không, chống máy bay hoặc trực thăng, nhỏ gọn, dài khoảng 1.47 mét với đường kính 70mm nằm trong một ống phóng ngắn có thể bắn từ trên vai. AT-3 được chế tạo để chống thiết giáp (xe tăng, thiết vận xa) hoặc bắn vào các công sự chiến đấu kiên-cố.
Trận Thường Đức do cán bộ Sư Đoàn 304CSBV trực tiếp chỉ huy. Trong cuộc họp chuẩn bị giữa Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 với bộ chỉ huy Quân Khu 5 CSBV, đã có việc trao đổi kinh nghiệm sử dụng pháo bắn thẳng có hiệu lực cao ở Nông Sơn. Tư lịnh Sư Đoàn 304 CS khẳng định sẽ tiêu diệt Thường Đức với hỏa lực hùng hậu của BộTư Lệnh B5 yểm trợ gồm cấp số trang bị pháo 85 ly và 105 ly gấp đôi của Sư Đoàn 2 CSBV lại có thêm súng cối 160 ly có sức công phá lớn, yểm trợ đắc lực cho bộ binh xung phong.
Quân Đoàn 2 CS tổ chức một bộ phận tiền phương đi cùng với Sư Đoàn 304 do Ðại Tá VC Hoàng Đan, phó tư lệnh quân đoàn phụ trách.
Với nhiệm vụ tấn công chi khu quận lỵ Thường Đức, thử thách quan trọng đối với Sư Đoàn 304 là việc chuyển vận đưa vũ khí đạn dược vào trận chiến. Hai tổ trinh sát từ hai hướng hoạt động gởi về báo cáo các kế-hoạch mở đường. Sau khi cân nhắc, cán bộ chỉ huy Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 quyết định mở đường từ Trào vào bến Hiên. Con đường này Cộng Sản Bắc Việt phải làm mới 45km, còn 21km dựa vào con đường VNCH làm dở dang đã bỏ từ lâu, sửa lại là xe pháo đi được, việc bảo đảm bí mật đưa lực lượng vào chiến dịch cũng tốt hơn. Ngoài việc ghép thuyền chở pháo, và các loại vũ khí cộng quân còn đóng nhiều bè chuối, bè nứa để vận chuyển đạn và gạo vào chiến dịch
Đoạn đường từ bến Hiên vào Thượng Đức dài 17km, phía VNCH thường đưa thám báo ra phục kích, cộng quân chưa thể sửa ngay được. Giai đoạn đầu, cộng quân phải dùng thuyền, bè chở pháo đạn xuôi sông Côn rồi dùng sức người đưa pháo lên chiếm lĩnh trận địa. Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 hạ quyết tâm đến ngày 20-7 phải làm xong đường để đưa các lực lượng chính yếu vào đánh chiếm Thường Đức.
Sau hơn một tháng vật lộn với con đường, đêm 17 tháng 7/1974, các xe pháo của cộng quân đã bí mật kéo vào tập trung ở thôn Hiên. Các đại pháo 122 mm của Sư Đoàn 304 được bố trí trong các làng bản không có người ở, vì dân đã bỏ đi từ lâu, nay biến thành rừng. Cối 160 mm vào tới vị trí an toàn cách căn cứ Thượng Đức 3 km. Bộ đội và dân công lại đưa pháo 85 mm vượt qua một bãi sình lầy lên điểm cao 118 để bắn trực tiếp vào Thượng Đức.
Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 đặt tại phía Đông Nam núi Hà Sống, tại đây có thể quan sát rõ bộ binh xung phong lên Thượng Đức. Sư Đoàn 304 chia thành ba mũi tiến công vào Thượng Đức: Trung Đoàn 66 với Tiểu Đoàn 7,8 và 9 tấn công vào các vị trí VNCH ở trung tâm chi khu quận lỵ , bộ đội địa phương, dân quân du kích tấn công vào các thôn xung quanh quận lỵ, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324 chiếm lỉnh các cao điểm ngăn chận viện binh ở vòng ngoài dọc theo phía Bắc LTL 4.
Lực lượng bạn :
- Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng,
- Hai Đại Đội Địa Phương Quân,
- Một Đại Đội Cảnh Sát Dã Chiến,
- Một Trung Đội Viễn Thám
- 16 Trung Đội Nghĩa Quân
- LĐIND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 1,8,9 ND và TÐ1PBND
* Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Văn Nhỏ làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghi làm Tiểu Đoàn Trưởng.
- LĐ3ND do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2,3,6 ND và TÐ3PBND
* Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, Thiếu Tá Võ Thanh Đồng làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Hửu Thành làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù Thiếu Tá Nguyển Văn Thông làm Tiểu Đoàn Trưởng
Diển Tiến :
Khởi sự ngày 29/7/1974 Trung đoàn 29/324CSBV bắn hoả tiển vào phi trường Đà Nẳng,cùng lúc pháo kích vào quận lỵ Thường Đức đễ triệt hạ các công sự phòng thủ và tấn công các vị trí tiền đồn do các đơn vị Nghĩa Quân và ĐPQ trấn giữ. Kho đạn của quận lỵ bị bốc cháy, Chi Khu Thượng Đức mất liên lạc với ba vị trí tiền đồn của Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân và hai vị trí tiền đồn của Biệt Ðộng Quân nhưng pháo binh từ Đồi 52 gần Đại Lộc yểm trợ hữu hiệu, gây nhiều thiệt hại cho quân Cộng Sản.
Trung Đoàn 66 CSBV dùng bộc phá mở hàng rào ở hướng chính, Tiểu Đoàn 7 CSBV bị một Trung Đội ĐPQ chận đứng với một khẩu đại liên 50 (đại liên 12.7 mm) ở Trúc Hà. Cộng quân dùng pháo 85 ly bắn trực xạ diệt được khẩu đại liên 50 của trung đội ĐPQ, Tiểu Đoàn 7 CSBV tiếp tục đưa lực lượng vào đột phá nhưng cũng không thành công.
Hướng Tiểu Đoàn 9 CSBV, mặc dù chiến đấu rất dữ dội, nhưng mở đến hàng rào thứ tư thì bị lính BĐQ đánh trả mạnh mẽ. Cộng quân bị thương vong quá nhiều phải dừng lại. Phía VNCH phản ứng rất nhanh, Không Quân VNCH từ Đà Nẵng bay lên đã ném bom chính xác vào ngay hàng rào. Khi Bắc quân bắn nát một lô cốt và chuyển sang lô cốt khác, TĐ79 BĐQ lập tức đưa quân bám lấy lô cốt sập, bắn chận không cho quân Bắc Việt tiến lên.
Sáng sớm hôm sau, ngày 30/7/1974 CSBV pháo dử dội và tấn công vào chi khu Thượng Đức, Chi Khu Trưởng bị thương nặng nhưng quân ta vẫn giử vửng được phòng tuyến, các binh sĩ VNCH tiếp tục anh dũng đánh bật các đợt tấn công của Bắc quân. Phi cơ quan sát của VNCH phát hiện một đoàn quân xa và pháo binh của VC di chuyển trên liên Tỉnh Lộ số 4 phiá Tây Thượng Đức, Không quân VNCH từ Đà Nẵng đã được gọi đến oanh kich tiêu diệt 3 chiến xa của địch.
Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng cường tập rất mạnh của Trung Đoàn 66 CSBV và sau nhiều đợt pháo bắn yểm trợ cho nhiều đợt bộ binh tấn công nhưng vẫn không thành công trước sự chống trả vô cùng anh dũng, quyết liệt của những người lính VNCH được Không Quân từ Đà Nẳng lên yểm trợ đắc lực.
Sau hai ngày đêm tấn công quyết liệt, Trung Đoàn 66 vẫn không “mở cửa” được trong khi bị thiệt hại nặng nề, phài dừng lại cũng cố đội hình. Đêm 30/07 Nguyễn Chánh, Tư lịnh phó Quân Khu 5, phải ra mặt trận để chấn chỉnh lại đội ngũ và quyết định đưa pháo vào gần để bắn trực xạ.
Ngày 31/7/1974 sau những đợt pháo tập khũng khiếp, Trung Đoàn 66 CSBV liên tục đưa lực lượng tiến sát vào vòng đai phòng thủ nhưng Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng ĐPQ/NQ Thượng Đức chống trả rất dữ dội khiến cộng quân bị thương vong rất nhiều mà hàng rào vào quận lỵ vẫn chưa mở được. Tiểu Đoàn Trưởng 79 BĐQ yêu cầu dội pháo ngay lên hầm chỉ huy của ông. Các công sự phòng thủ cũng như hệ thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên tục của quân CSBV nhưng lính mũ nâu vẫn giữ được căn cứ và sau cùng Cộng quân cũng chiếm được bải đáp trực thăng phiá ngoài đồng thời bố trí quân trên các cao điểm để chế ngự Tỉnh lộ 4 ở phía Đông Thượng Đức chờ quân đội VNCH phản công theo đúng chiến thuật "đánh điểm diệt viện." Trước sự thiệt hại nặng nề của Trung Đoàn 66, Sư Đoàn 304 phải ra lệnh cho Trung đoàn ngừng tiến công và chuyển sang phòng ngự giữ bàn đạp đã chiếm được.
Trong ngày nầy Quân cộng sản cũng pháo vào các vị trí của Trung Đoàn 2 BB và Pháo Binh đóng tại Đại Lộc. Sau khi tổn thất nặng ở trận Đức Dục vài tuần trước Trung Đoàn 2 BB đang được tái bổ sung và huấn luyện ở phía tây Đại Lộc, một pháo đội 175 ly được di chuyển ra quận Hiếu Đức để yểm trợ cho Thượng Đức. Sau đợt tấn công đầu tiên của quân CS, Trung Tá Quận Trưởng Nguyễn Quốc Hùng tuy bị thương gãy chân nhưng vẫn báo cáo về Đà Nẵng là giữ được Thượng Đức và yêu cầu tăng viện. Bộ Chỉ Huy Chi Khu Thượng Đức ráo riết huy động binh lính cũng cố các công sự phòng thủ. Phát hiện được lực lượng đang bao vây Thượng Đức là bộ đội chủ lực CSBV vừa di chuyển từ Quảng Trị vào, Không Quân VNCH đã được gọi tới oanh kích dữ dội vào đội hình vây lấn của địch quân.
Tại chi khu Thượng Đức, tổn thất của Biệt Ðộng Quân và các đơn vị trú phòng ngày càng gia tăng trong khi việc tải thương không thực hiện được do hỏa lực phòng không ác liệt của cộng quân. Tướng Trưởng điều động một Chi đoàn chiến xa M-48 từ Tân Mỹ phía Bắc Hải Vân vào Đà Nẵng làm trừ bị cho Tướng Hinh khi tình hình trở nên nghiêm trọng.
Ngày 1/8/1974 để giải toả áp lực địch, Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lịnh Sư Đoàn 3 BB đã thành lập một Chiến đoàn đặc nhiệm gồm Trung Đoàn 2BB và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh từ Đại Lộc đi dọc theo Tỉnh lộ 4 tiến về Thượng Đức.
Ngày 3/8/1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2BB bắt được một tù binh Bắc Việt ở phía Đông Thượng Đức, theo cung từ cuả tù binh nầy cho biết Trung đoàn 29 CSBV đã chiếm giữ các cao điểm 1235 và 1062 để chế ngự tỉnh lộ 4 giữa Thượng Đức và Đồi 52 ở phía Tây Đại Lộc, con đường tiếp liệu và tiếp viện cho Thượng Đức trong khi Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 được tăng cường lực lượng chuẩn bị dứt điểm Thượng Đức.
Bắt đầu đợt tấn công mới. Pháo binh CS, đã hạ nòng bắn tập trung diệt từng lô cốt một của căn cứ. Không Quân VNCH đã gởi phi pháo đến yểm trợ và trọng pháo tác xạ dữ dội vào các vị trí quân CS. Nhưng rút được kinh nghiệm của đợt tấn công trước, đội hình bộ binh cộng quân áp sát mục tiêu hơn và có công sự chu đáo nên tránh được thương vong nặng như lần trước. Đạn pháo bắn thẳng phá tung những lô cốt còn lại, sau đó cối 160 mm nện chính xác vào khu trung tâm rồi pháo chuyển lần hướng dẩn cho bộ đội tiến tới.
Mặc dầu được tăng cường Tiểu Đoàn 1/57, Chiến đoàn của Trung Đoàn 2 tiến rất chậm trước sự kháng cự của Trung Đoàn 29 CSBV và hỏa lực pháo binh hùng hậu của Cộng quân dọc theo các cao điểm 1235 và 1062 cạnh LTL4. Trong khi tại Thường Đức, tình hình trở nên nguy kịch khi lính Biệt Ðộng Quân sắp cạn kiệt đạn dược cũng như lương thực. Không Quân VNCH cố gắng thả dù tiếp tế khẩn cấp vào ngày 5 tháng 8 nhưng do hỏa lực phòng không ác liệt của Bắc Việt, tám kiện hàng tiếp tế đều rơi ngoài chu vi phòng thủ. Một oanh tạc cơ A-37 bị bắn rớt khi định tiêu diệt các kiện hàng tiếp tế không may rơi vào khu vực do quân CSBV kiểm soát.
Lo ngại về mối đe dọa nguy hiểm lớn cho Đà Nẵng từ hướng Tây của Đại Lộc, Tướng Trưởng khẩn cầu trực tiếp với Đại Tướng Cao Văn Viên cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù từ Sàigòn ra tăng viện đồng thời ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đang phòng thủ phía tây Huế chuẩn bị di chuyển vào Quảng Nam, nhưng các hoạt động này đã không còn kịp đễ cứu vãn tình thế cho Thượng Đức.
Mặc dầu liên tục pháo vào Thường Đức từ ngày 29 tháng 7, cường độ pháo trong đêm 6 tháng 8 gia tăng mạnh với trên 1,200 đạn pháo. Ở hướng chính của căn cứ, Cộng quân dùng bộc phá liên tục để mở ngỏ, nhưng binh sĩ VNCH trong hầm ngầm chui ra các lô cốt đã bị sập, bắn trả quyết liệt. Đến 7 giờ sáng ngày 6 tháng 8/1974, Địch quân vẫn chưa vào được quận lỵ.
Suốt một ngày và đêm 6 tháng 8/1974 chiến đấu liên tục, Tiểu Đoàn 9 CSBV đã mở được cửa đột phá và đánh chiếm được một số lô cốt tuyến chiến hào thứ nhất. Nhưng khi phát triển vào trung tâm, các mũi tiến công của Cộng quân bị khựng lại trước hệ thống hỏa lực dày đặc của Binh Sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng lính Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân ở Thượng Đức quyết không đầu hàng nên đã chiến đấu vô cùng quyết liệt, đánh trả các cuộc xung phong của bộ đội CSBV đến người lính cuối cùng và viên đạn cuối cùng.
Trên trời, máy bay A-37 của Không Quân VNCH liên tục quần đảo bắn phá và bổ nhào trúc bom đánh ngay vào khu vực hàng rào căn cứ, chi viện cho quân đồn trú ở Thượng Đức giữ vững khu vực còn lại. Những người lính mũ nâu anh hùng của Tiểu Đoàn 79 BĐQ tiếp tục đẩy lui một đợt tấn công nữa vào đêm này.
Đến 1 giờ ngày 7-8, cộng quân chuyển hướng tiến công của Tiểu Đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Đến 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8 năm1974, sau khi củng cố lực lượng và bố trí lại đội hình, Trung Đoàn 66 mở đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hỏa lực của pháo binh CS bắn chi viện cho Tiểu Đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Những người lính BĐQ, ĐPQ và NQ còn sống sót rút vào lô cốt ngầm bắn ra như điên như dại, chống cự quyết liệt.
Tiểu Đoàn 9 đã chiếm được khu Địa Phương Quân và phát triển xuống khu cảnh sát, quận lỵ. Tiểu Đoàn 7 từ hướng tây bắc đã sang hướng Tiểu Đoàn 9, đột phá vào khu Biệt Ðộng Quân. Lúc 8 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8/1974, Sư Đoàn 304 đã tràn ngập cứ điểm Thượng Đức. Tiểu đoàn trưởng BĐQ báo cáo mở đường máu rút lui trước khi liên lạc bị mất vào trưa ngày 7 tháng 8.
Thượng Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay quân Bắc Việt sau ngày ngừng bắn và một cơ hội cho Hà Nội đánh giá phản ứng và khả năng yểm trợ cho VNCH của Hoa Kỳ khi chiến sự bắt đầu leo thang.
Do chủ quan về khả năng chiến đấu của chủ lực cơ động cùng pháo binh hùng hậu yểm trợ, Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 đã phải trả một giá khá đắt, thiệt hại nặng nề với 75% quân số thương vong khi bị Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng các người lính ĐPQ/NQ và CSDC của chi khu Thượng Đức được sự yểm trợ tích cực và hữu hiệu của Không Quân VNCH từ phi trường Đà Nẳng đã chận đứng và đánh bật hàng loạt các đợt tấn công kéo dài suốt 9 ngày đêm. Các người lính VNCH đã không chịu đầu hàng mà chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, cho đến giọt máu cuối cùng. Nhưng sự hy sinh anh dũng này đã đi vào quên lãng do địa thế hẻo lánh, không được nhiều người biết đến.
Sư Đoàn Nhảy Dù tham chiến :
Ngày 8/8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 Tiểu Đoàn trực thuộc 1, 8, & 9ND được khẩn cấp không vận đến vùng hành quân Đại Lộc bằng phi cơ C130, một ngày sau khi Thường Đức thất thủ, trong khi các thiết bị nặng như đại bác 105-ly và xe cộ được đưa ra bằng tàu của Hải Quân. Sau khi nghỉ đêm tại Quận Hiếu Đức, sáng hôm sau Lữ Đoàn I ND di chuyển bằng đoàn xe GMC hướng về quận Đại Lộc, qua Ái Nghĩa, cầu Chìm. Đoàn xe dừng tại đây, mọi người ba lô súng đạn gọn ghẽ, triển khai đội hình từ từ tiến vào vùng hành quân.
Ngày 11/8/1974 Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn 2, 3 & 6 được lệnh di chuyển bằng phi cơ từ phi trường Phú Bài xuống phi trường Đà Nẵng trách nhiệm án ngử ở quận Hiếu Ðức sau khi bàn giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân / Quân Khu 1.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) cũng di chuyển đến Đà Nẵng. bản doanh tại phi trường Non Nước ở phía Nam Đà Nẵng.
Trên vùng đồi núi chập chùng nằm phía bắc thung lũng sông Vu Gia, Liên Tỉnh Lộ 4 nối liền Thường Đức với khu vực đồng bằng duyên hải, 2 bên trái phải là 2 dãy núi cao chót vót trùng điệp chạy chụm lại, 2 dãy núi gặp nhau tại một khe núi rất hẹp, có tên là Ba khe, với ngọn đồi 52 trọc đỏ ối nằm ngay yết hầu con đường độc đạo chạy từ Đại Lộc vào Thường Đức, vào sâu nữa là vùng Bến Giàng rồi Khâm Đức.
Dọc hai bên sườn đồi, địch quân như có ý đồ từ lâu, hầm hố được dựng rất kiên cố. Họ cưa cột nhà của dân chúng đem gác thành khung chữ A, tháo tôn trên mái nhà đặt lên mặt, rồi tấn đất cát chặt lên trên. Từng chiếc hầm kiên cố, nếu một quả đạn 105 ly có nổ trên nắp hầm cũng chả ăn thua gì, địch vẫn ngồi bên dưới ung dung kéo thuốc lào.
Địch đã xây dựng hệ thống phòng thủ này từ lâu lắm rồi. Họ đã khống chế toàn vùng từ khuya, nhưng vẫn để cho con đường độc đạo này thông thương qua lại, dân chúng vẫn ra vào, quân ta vẫn đi lại lui tới tưởng như vô sự. Nhưng nếu thử tung một toán trinh sát lấn sâu sang bên lộ thử xem, địch quân đang nằm trong đó. Cho nên khi địch lật úp bàn tay thì toàn bộ lực lượng Sư đoàn 3BB và Biệt Động Quân tan tác trong nháy mắt. Vị sĩ quan Đại đội trưởng ĐĐ/BĐQ trấn thủ đồi 52 khi chạy thoát về gặp Nhảy Dù, chỉ còn có một người lính mang máy PRC-25 đi theo, ông ta vẫn chưa kịp hoàn hồn.
Cách Liên Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 km về phía Bắc, đồi 1235 nằm ở phía đông Thường Đức là đỉnh cao nhất, trong khi Đồi 1062 cách đó khoảng 2 km về phía Nam có vị trí chiến lược quan trọng có thể quan sát khống chế toàn bộ khu vực Liên Tỉnh Lộ 4 và thung lũng sông Vu Gia từ Thường Đức kéo dài cho đến Đại Lộc. Theo con đường độc đạo ngoằn ngoèo, những toán quân của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, của Biệt Động Quân đang nhớn nhác di tản từ Thường Đức ra. Nương theo đoàn binh lính là những dân lành, gồng gánh bồng bế nhau tìm đường thoát hiểm. Những loạt đại bác 130 ly của địch từ núi sâu bắn rải theo đoàn người dọc trên mặt lộ. Mỗi khi một cụm khói bốc lên, đoàn người lại ngã xô xuống. Khi cụm khói tan đi, có dáng người loạng choạng đứng lên lê lết bước, có dáng người vẫn nằm yên một chỗ phơi thây trên mặt đường.
Trung Đoàn 29 CSBV đã đóng chốt trên những ngọn đồi nằm sát Liên Tỉnh Lộ 4 và đã thiết lập một đài quan sát pháo binh ở trên đỉnh 1062 để có thể pháo chính xác vào các vị trí của Việt Nam Cộng Hòa trong khu vực Đại Lộc và kiểm soát tất cả mọi chuyển động trên Tỉnh lộ 4.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được giao cho nhiệm vụ chiếm lại đồi 1062 cùng các ngọn đồi lân cận tiếp giáp với Liên Tỉnh Lộ 4 trong khi Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù bảo vệ Đà Nẵng ở hướng Tây qua quận Hiếu Đức. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù thay phiên nhổ từng chốt Cộng quân bám chặt trong những hốc núi trong suốt một tháng trời, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiến dần lên Đồi 1062.
Sau khi các cánh quân của Nhảy Dù đã vào tuyến xuất phát. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng, Tư Lịnh SĐND cho các đơn vị tiến dọc theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng.
Giai đoạn I của cuộc hành quân:
Ngày 18/8/1974 Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung trận, tuyến xuất phát khởi từ làng Hà Nha. Hà Nha là một dải đồng bằng hẹp, bên trái là con đường độc đạo dẫn vào Thường Đức, bên phải giáp với chân của rặng Sơn Ya ( còn gọi là Sơn Gà) cao ngất trời xanh. Các đơn vị Nhảy Dù chia thành từng toán nhỏ đeo bám trên các sườn núi để diệt các chốt Cộng Sản bằng lựu đạn, vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, thì chạm mạnh với đich quân, họ phải giành giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức. Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đoàn quân Nhảy Dù súng hờm trên tay, cẩn trọng trải rộng đội hình dấn bước vào lò lửa đang sôi sục Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Nhảy Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
Về phía CSBV,Trung Đoàn 29 bị tổn thất quá nặng phải lùi dần về sau nên Quân Khu 5 Cộng Sản phải điều động Trung Đoàn 31 của Sư Đoàn 2 CSBV vào thay cho Trung Đoàn 66 đang giữ Thường Đức để đơn vị này ra tăng cường cho Trung Đoàn 29 để làm chậm lại bước tiến của những người lính Nhảy Dù. Cộng quân cũng đã đưa Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 từ Quảng Trị vào đến chiến trường vào đầu tháng 9/1974 để tăng cường cho mặt trận.
Sáng ngày 18/8, ba Tiểu Đoàn 1ND, 8ND và 9ND vượt tuyến xuất phát, BTL/SĐ Nhảy Dù cũng đã tung các đơn vị Đại Đội 19, 21 và 27 Đa-Năng hoạt động để đánh lạc hướng tình báo địch.( 12 Đại Đội Đa Năng là những Đại Đội thiện chiến ưu tú của SĐND, được tổ chức ngoài bản cấp số. Quân số rút ra từ các đơn vị thống thuộc và được huấn luyện khả năng tác chiến như một Đại Đội độc lập).
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐIND ra lệnh Tiểu Đoàn 8 tiến theo Tỉnh Lộ 4, dọc bờ sông Vu-Già bảo vệ cánh trái trục tiến quân tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52). Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 chuyển lệnh cho Đ/U Phạm Văn Hiệu dàn Đại Đội 83 xung phong thần tốc tấn công thẳng vào làng Hà Nha để giải tỏa đồn Địa Phương Quân.
Khi Trung đội 1/83, Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến vào gần tới bờ làng thì quân CS Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 do Thiếu Úy Nghiêm Sỉ Thành chỉ huy nhào vô cứu bồ vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy hết. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Đại Úy Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Thiếu Úy Tiến dẫn toàn bộ Trung Đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Đ/U Hiệu cho bố trí, binh sĩ canh gác cẩn mật, đào hầm hố củng cố vị trí chiến đấu. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Đ/U Phạm Văn Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ đã chuẩn bị hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến và Thiếu Úy Nghiêm Sĩ Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân CS Bắc Việt cứ nhào tới định tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai Sỉ quan nầy ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời hai người hùng trai trẻ của Ðại Ðội 83. Đây là hai sĩ quan đầu tiên của Tiểu đoàn 8 ND ngã xuống trên mặt trận Thường Đức, mở đường cho năm sĩ quan Trung Đội Trưởng sau đó theo chân Tiến ra đi không hẹn ngày về.
Đ/U Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lê Mậu Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số tù binh.
Trong lúc đó, Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, đi cánh phải của Lữ Đoàn, tiến chiếm mục tiêu đầu là cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Ya tiến về hướng Tây tới 1062. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của quân CS Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý (Tiểu Đoàn Phó) chỉ huy 2 Đại Đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà.
Một trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại "mìn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Ðại Ðội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì mìn hơi này.
Hôm sau, Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Dù vẫn gặp khó khăn trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những hốc đá. Một toán tiền quân của Đại Đội 11 đã diệt được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đã chết do cụt chân vì mìn hơi và một người còn sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đó vị trí các lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa. Sau khi chiếm được Đông Lâm, hai Đại Đội 11 và 14 trực chỉ tới mục tiêu B.
Tiểu Ðoàn 9 ND giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi che phủ. Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 92, Trung Úy Thăng, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 94, Đại Úy Trọng, Đại Đội Trưởng Ðại Ðội 91, cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tửu phải băng qua một cánh rừng tràm để đến đồi 383 rồi mới tiến sát tới đỉnh 1062, .
Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9 không sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B1 trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân nên Đại Úy Đinh Văn Tường (Tức Tường Ruby) từ Ðại Ðội 90 ra thay thế.
Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Ðoàn 1 nhờ lợi thế hơn 2 cánh quân bạn, nên tiến quân tốc độ cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn 1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho Lữ Đoàn. Qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho lệnh Đại Ðội 11 đánh bọc hậu phía sau xuống cứ điểm B1, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Ðoàn 9.
Xuyên qua thung lũng, Ðại Úy Thể dẫn quân tấn công vào phía sau B1 một cách bất ngờ ở ngay sau lưng địch. Đối diện với Cộng quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, Đại Ðội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Quân CS Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, Ðại Ðội 11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. Sau này Tiểu Ðoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062 :
Trời sẩm tối, chờ bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến Trung Đội Trưởng bị hy sinh. Sáng hôm sau 20/8/1974, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14 bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Kế đó, TĐ1ND tiếp tục tiến về cứ điểm C, một tiền đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của Đại Úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn, ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn.
Suốt 3 ngày cầm cự, Ðại Ðội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Ðại Ðội 11 bám sát tiến lần vào cách mục tiêu C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu đạn. Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quý cho tập trung 5 khẩu đại liên M-60 chờ cho Tiểu Đoàn bắn hơi cay để địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
Ðại Ðội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Ðại Ðội 11 và Ðại Ðội 14 phải trả giá rất đắt.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở, rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Lúc nầy Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố.
Đỉnh 1062, có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng xung kích gồm 2 Trung Đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Đội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung Đội của Ðại Ðội 11. Đây là 2 Sĩ Quan xuất sắc đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho Tiểu Đoàn. Ðại Ðội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Ðại Ðội 11 do Thiếu Tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai Trung Đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình. Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Đoàn Trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung Đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). T/U Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D. Đáng phục thay một Sĩ-Quan can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận với núi sông.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062. Trung Đội của Thiếu Úy Quang có 15 chiến sỉ anh dũng hy sinh.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi lúc một nhiều mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Thiếu Úy Quang bị cháy đen..
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy bị thương trong đó có hai Sỉ Quan Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An.
Trong khi đó Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ và Ðại Ðội 15 của Đại Úy Lộc đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (Truyền Tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Xa Luân Chiến, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù xông trận :
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn khi Tiểu Đoàn 8 bỏ Hà Nha, chuyển lên núi để thay thế cho đơn vị bạn tấn công địch quân trên các cao điểm.
Địch vào trận với lợi thế trên sân nhà, họ lợi dụng tối đa địa thế, địa hình. Khi quân ta vừa băng qua một trảng trống thì bị địch nghênh cản rất mạnh mẽ, nếu nhìn chung quanh có những tảng đá lớn chênh vênh trên sườn núi thì đừng có dại dột chạy vào ẩn nấp, sau lưng tảng đá là một bãi mìn gài sẵn. Địch từ vị trí thuận lợi trên cao nhìn xuống thấy rõ từng người lính đang hút thuốc, đang nấu nướng, địch dùng súng cối 61 ly bắn vào quân ta.
Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062, sức lực của đơn vị cũng đã sức mẻ phần nào, còn lại bao nhiêu sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngã về không. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, cứ như hai gã thanh niên cùng tranh dành một cô gái thơm như múi mít, bên nào cũng đòi quyền sở hữu em gái, không ai chịu nhường ai.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82 của Nam, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiêng 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 84 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị thương.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.
Đại Úy Hiệu dẫn đại đội 83 xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Sang ngày thứ 4 sau ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để phòng thủ.
Vị trí đóng quân giửa TĐ8ND và địch quân chỉ cách nhau khoảng 50m, đôi bên giử thế cài răng lược gờm nhau đã suốt 2 tuần lể, chờ cho đối phương sơ hở là thịt ngay. Tinh thần mọi người luôn căng thẳng, chỉ sơ suất một giây lát là vong mạng.
Lúc 8.30 tối, Cộng quân từ cao điểm hai ngọn đồi 1062 bất thần tấn công xuống 2 mặt, các chiến sỉ Nhảy Dù phản công quyết liệt, và gọi Pháo Binh tác xạ cận phòng dội ngay lên đầu địch. Quân CS thấy Nhảy Dù chống trả quyết liệt và pháo binh tác xạ dữ dội nên chúng rút lui.
Sáng hôm sau địch quân tấn công ban ngày, vì biết Nhảy Dù ở sát nách, chúng cần phải bứng gốc mới mong giữ được 1062. Các Đại Đội 81,83 và 84 cho các chốt bung rộng ra và bám sát tuyến địch. Tất cả các tuyến đều chạm địch. Trung Úy Vũ Đức Tiềm, một Trung Đội Trưởng bị tử thương. Đại Úy Đồng Văn Minh và Trung Úy Hà Mai Trường bị thương nặng phải di tản.
Gần 1 tháng quần thảo Ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì chiếm lại bằng mọi giá. Ngày 19/9/1974 LĐ1ND quyết định tấn chiếm đỉnh đồi 1062, ra lịnh cho các đơn vị lui lại 200m để phi pháo và pháo binh tác xạ liên tục từ 6.00 đến 7.30 giờ cho địch quân không ngốc đầu nổi. Sau đó tất cả đơn vị xung kích Nhảy Dù xung phong tràn lên mục tiêu. Một số lớn cộng quân run rẩy qùy lạy đầu hàng. Họ được đối xử tử tế, băng bó vết thương, cho ăn uống và thuốc hút. Họ nói “chúng tôi nghe tuyên truyền rằng lính Dù các anh ác ôn hung dữ lắm, sao hôm nay các Anh đối xử tốt với chúng tôi quá vậy?”
Sau đó TĐ8ND bung rộng ra lục soát quanh đỉnh đồi tìm thấy trên 300 xác giặc bắt sống thêm 7 tù binh tịch thu gần 200 khẩu súng đủ loại… Sau khi thu dọn chiến trường, TĐ8ND phối trí các đơn vị chiếm giữ các cao điểm và cho binh sỉ bố phòng chuẩn bị địch quân tấn công trả đủa. Nhờ vào địa thế cộng quân làm sẳn các công sự nên các chiến sỉ Dù cũng đở phải vất vả.
Khoảng 2.00 giờ chiều, địch quân bắt đầu pháo tập dữ dội vào 1062 cho đến chiều tối, sau đó tung 3 Trung Đoàn 29, 24 và 66 của SĐ Điện Biên, đơn vị thiện chiến số một của Tướng Giáp, tăng cường Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV quyết tâm tràn ngập và chiếm lại cứ điểm 1062, khắp các tiền đồn đều chạm địch.
Đến 1.00 giờ đêm ngày 20/9, Cộng quân ào ạt tấn công vào 1062. Nhờ chuẩn bị trước, TĐ8ND gọi pháo binh tác xạ vào các điểm hỏa tập tiên liệu cận phòng nên các chiến sỉ Tiểu Đoàn 8 vẫn giữ vững phòng tuyến. Đến 4 giờ chiều, Trung Đoàn Sông Hồng tung thêm lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến. Vào giờ nầy, lực lượng địch bu quanh 1062 dầy đặc như ruồi bu quanh viên kẹo.
Lữ Đoàn 1ND ra lịnh TĐ8ND lui binh về sau khoảng 200 thuớc, dùng phi pháo tiêu diệt địch quân đang bao quanh đỉnh 1062 đông như kiến. Sau các phi vụ oanh kích của Không Quân VNCH, TĐ8ND trở lại tấn kích tái chiếm ngọn đồi chiến lược nầy, đồng thời tung thêm các đơn vị Đa Năng và Trinh sát xâm nhập sâu vào các hốc đá, khe núi chỉ điểm các vị trí đặt pháo của địch nên pháo binh và không quân phản pháo chính xác tiêu diệt được Bộ chỉ huy Trung Đoàn Sông Hồng đầu nảo của VC tại phía Đông Bắc của đồi 1062 khiến địch quân phải tháo lui, bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá nhân, bắt sống 40 tù binh thuộc Trung Đoàn Sông Hồng.
Ngày 2/10/1974 quân CSBV dự định thêm một lần nửa tấn công biển người để tái chiếm căn cứ 1062 nhưng bị Không quân VNCH và pháo binh ND yểm trợ hoả tập kịp thời và chính xác vào các ngọn đồi 383 và 126 gây tổn thất cho địch trên 250 nhân mạng.
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến :
Sau đó, áp dụng chiến thuật xa luân chiến, Tiểu Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (Tiểu Đoàn Trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (Tiểu Đoàn Phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một vài ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi đối diện.
Ngày 29/10/1974, chiều hôm đó trận địa im tiếng sung, tình hình các nơi yên tỉnh, nhưng binh sĩ canh gác tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi. Thiếu Tá Vân ra lịnh cho các đơn vị trực thuộc báo động đề cao cảnh giác, kiểm soát các tuyến phòng thủ, gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế đề phòng địch tấn công bất ngờ.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của Đại Đội 31 của Đ/U Ngụy Văn Đàng. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đứng trên đỉnh 1062 theo dõi châm chú trận đánh. Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng lớp lớp cộng quân rơi rụng.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Đội 31 đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1062 và ngọn đồi không tên. Hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên cùng ào lên 1062 một lượt. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đ/U Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đ/U Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
BCH Tiểu đoàn gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục.
Đại Ðội 34 của Trung Úy Thư, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, lực lượng phòng thủ 1062 của Nhảy Dù phải rút khỏi cứ điểm nầy (2 ĐĐ 31ND, ĐĐT là Đ/U Ngụy Văn Đàng và 34ND, ĐĐT là Trung Úy Phạm Văn Thư cùng 7 Sỉ Quan Trung Đội Trưởng và trên 140 HSQ&BS bị hy sinh vì pháo địch ). Mặc dù có những công sự do Cộng quân đã chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, tuy nhiên địch quân quá đông, phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Ngày 1/11/1974, CSBV tái chiếm đỉnh đồi 1062. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù được lịnh vào vùng tiếp ứng cho TĐ3ND. Tiểu Đoàn 9 dàn quân thành hai mũi ĐĐ93 của Đ/U Đinh Văn Tường và ĐĐ 92 của Trung Úy Nhơn tấn công từ trên cao đánh xuống. Trong lúc đó, bên sườn dốc đứng phía dưới, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ bày trận thế nghi binh để cho địch quân tưởng là ta tấn công mặt nầy. Địch quân dùng giàn thung bắn thư rơi khiêu chiến “ Thách ngụy Dù lên đánh”.
Vì biết địch quân lợi dụng hầm hố kiên cố trên đỉnh 1062, pháo binh của ta không làm gì được, Đại Úy Tường cho phóng lựu đạn cay lên buộc địch quân phải chui ra khỏi hầm sau đó gọi phi pháo thả bom Napalm hỏa thiêu đỉnh đồi 1062 đồng thời xua quân bao vây nguồn tiếp tế và nước. khiến địch quân chịu không nổi phải bỏ chạy. Ta và địch giằng co đỉnh đồi nầy nhiều lần, quân số đôi bên đều bị tiêu hao nhiều. Trung Úy Nhơn bị thương cả hai chân vì đạp phải mìn hơi.
Ngày 8/11/1974 lực lượng Nhảy Dù phản công tái chiếm lại 1062 và lập tuyến phòng thủ quanh sườn núi. Dẹp tan các chốt lẻ tẻ cuả địch và thu nhặt xác các quân nhân Nhảy Dù bị tử trận trong thời gian trước đó. Nhờ thời tiết giá lạnh nên các xác không bị hư hủy..
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau hai tuần nghỉ ngơi và chỉnh trang lại được đưa vào vùng phía Bắc của 1062, Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen") sử dụng tối đa các phi tuần A-37 oanh kích tối đa mục tiêu và áp dụng chiến thuật đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách tung hai Đại Đội 11 & 15 duyên theo đường thông thủy tiến vòng lên phía Bắc thay vì đi theo yên ngựa rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2.
Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 thu được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Thiếu Tá Trần Công Hạnh tân Tiểu Đoàn Trưởng, cùng Tiểu Đoàn trừ đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu Đoàn Phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Thiếu Tá Phương cho các Đại Đội tung ra lục soát, Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn Trung Đội tiến chiếm vị trí chốt mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức. Thiếu Tá Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành-Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Thiếu Úy Lân cũng bị hy sinh. Thiếu Tá Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai đến vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Thiếu Tá Trần Công Hạnh lên làm Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm Tiểu Đoàn Phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (Tiểu Đoàn Trưởng), và Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm Tiểu Đoàn Phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương Đông kích Tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND tiến lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Đến cuối năm 1974 thì Sư Đoàn Nhảy Dù rút quân về quận Đại Lộc nghĩ ngơi, bổ sung thiệt hại và chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp, chỉ để lại Tiểu Đoàn 1 và 7 Dù đóng ở khu vực Đồi 52 và núi Đông Lâm cách Đồi 1062 khoảng 4 km về phía đông, thường xuyên đưa các toán tuần tiểu vào khu vực Đồi 1062 và sử dụng hỏa lực pháo binh để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân. Kể từ đây,tình hình quân sự tại cả hai phía Nam và Bắc đèo Hải Vân hoàn toàn yên tỉnh cho đến khi SĐND bắt đầu rút quân khỏi Quân Khu I khoảng trung tuần tháng 3/1975.
Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh :
Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Đức vào ngày 15 tháng 8 liên tục trong ba tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực đồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đã bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Đoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 Tiểu Đoàn trong chiến dịch này và đến giữa tháng 11 có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Đồi 1062. Ba trung đoàn CSBV (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị thương. Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu .
Nhảy Dù : 500 chiến sỉ hy sinh 2000 bị thương.
Cộng Sản : 2000 chết, 5000 bị thương ( tài liệu :Col.William E. Le Gro trong VietNam from Cease Fire to Capitulation )
Tài liệu tham khảo:
- Đời Chiến Binh của Trương Dưởng xuất bản tại California ngày 15/5/1999
- Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương Làng Văn Canada xuất bản 2001
- Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch Ðột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà vietnam.ictglobal.net
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. Email: pvotin@gmail.com
Tướng Lê Quang Lưỡng sinh năm 1932 quê tại tỉnh Bình Dương. Thời niên thiếu, học hết bậc Tiểu học tại tỉnh nhà ông lên Sài Gòn theo học tại Trường Trung Học Petrus Ký. Sau khi lấy bằng Thành Chung ông gia nhập vào quân đội và xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Đại Tá Lê Văn Phát…Ngay khi vừa mãn khóa vào ngày 1 tháng 06 năm 1954 ông tình nguyện sang Binh Chủng Nhảy Dù và được gởi ngay ra Bắc bổ sung cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với chức vụ Trung Đội Trưởng của Đại Ðội 52 ND. Từ đó ông đã trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung Đội Trưởng (Thăng cấp Trung Úy tháng 6/1956), Đại Đội Trưởng (Thăng cấp Đại Úy tháng 11/1963), Ban 3 Tiểu Đoàn rồi Tiểu Đoàn Phó.
Năm 1965 Ông được đi du học về "Tác Chiến Trong Rừng Núi Sình Lầy" tại Mã Lai Á. Tại quân trường ông đã trình bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các Huấn luyện viên đều chú ý và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Trong buổi lể xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lý Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đã Chủ Tọa và trao gắng cấp bậc Thiếu Tá cho Ông.
Sau buổi lể xuất quân, Tiểu Ðoàn 2 ND về trấn giữ vòng đai Biệt-Khu-Thủ-Ðô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đã đứng ra hướng dẩn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đã tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đã từng gây kinh hoàng cho các đơn vị CS không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác.
Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản tình báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến "Tổng Công Kích năm Mậu Thân" của CS. Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐIND ông được thăng cấp Ðại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới.
Kể từ đây, ông đã tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch Bình Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đã tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đã điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù.
Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đã được đưa vào chương trình nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lảnh lừng danh của Đức Quốc Xả vào đệ nhị thế chiến.
Trong trận chiến nầy ông đã phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của CS rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vở chiến thuật Chốt Kiềng của CS tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngỏ Sóc Gòn của An Lộc.
Đại Tá Lê Quang Lưỡng đã áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đã nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược.
Với kinh nghiệm lão luyên trên chiến trường của một "Quân Đội con nhà nghèo" với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đã sử dụng tài tình và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị CS, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng vòng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc.
Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ-Tá hành-quân cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc.
Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía Cộng quân cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho tổ quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975.
Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đã áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ324B, SĐ304 và một Trung Đoàn của SĐ2CSBV cùng các lực lượng địa phương.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đã mở đầu cho sự tan rã ồ ạt sau đó.
Hơn thế nửa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền xử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đã bị xé ra từng mãnh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lược bị tan hàng.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: "Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta mãi mãi căm hờn".
Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, đến năm 1979 ông cùng gia đình di chuyển về California thành phố Baker Field cho đến cuối đời.
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đã không chiều lòng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980.
Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đã qua đời tại Bakefield California vì chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ. Đến phút cuối, ông nhất định không cho phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lên "quan tài của một bại tướng lưu vong", ông cũng trăn trối không nhận vòng hoa đưa đám, chỉ nhận tiền mặt để gởi về quê nhà giúp các đàn em thương tật. Tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm và "Huynh Đệ Chi Binh" của người Anh Cả Mũ Đỏ không ai có thể cao hơn thế được.
Tại San Jose California, một Cựu Chiến Binh Nhảy Dù - Định Thế 405 - đã thương khóc ông:
"Người đi…
Cây cỏ buốt đau thương!!!
Anh hùng Lê Quang Lưỡng.
Bàng hoàng…Nghĩ chừng vô tưởng.
Vị Tướng lãnh hào hùng,
Dẫn đầu quân binh Mũ Đỏ.
Đã bỏ trần gian,
Vội vàng không giã biệt.
Âm âm lạnh, lòng nhói đau da diết,
Thương hơn thương, tử biệt cõi sinh phù.
Hởi Thiên Thần máu đỏ thắm thiên thu,
Tim bất khuất, đời Hoa Dù vay trả.
Nghiệp cả trả chưa xong,
Đục trong trời phiêu lãng.
Ba mươi năm,
Những buổi chiều bàng bạc.
Cánh hạc thẫn thờ bay,
Cuộc đời nầy đen trắng.
Cả quá khứ đầy hận thù cay đắng,
Quê hương ơi chất nặng nghiệp linh hồn.
Vó ngựa chân bon…
Những bồn chồn từng thu qua chết lặng,
Vệt nắng vàng hoang vắng gió heo may.
Việt Nam ơi ! cả dân tộc đang quay,
Trận bảo lốc hay cơn say nghiệt ngã.
Ba mươi năm,
Khắp địa cầu xa lạ.
Đoàn Thiên Thần nghiêng ngã dắt dìu nhau.
Gượng cười thôi tim quằn quại thương đau.
Mỗi một bước vạn cơn sầu gậm nhấm.
Ba mươi năm,
Vàng đỏ đen tím xậm,
Nét kiêu hùng vẫn ẩn chứa trong tim.
Chưa bao giờ ta thật sự đứng im.
Dù một phút, nghĩ, chìm trong dĩ vãng.
Nhưng hôm nay bầu không gian ảm đạm,
Quân kỳ buồn, rủ xuống tiễn anh linh.
Quốc kỳ bay, tung ngao nghễ không thinh,
Lệnh kỳ bó, vành khăn tang đơn lạnh.
Hoàng Hoa Thám, mùa Trung Thu hiu quạnh.
Vì toàn quân mất vị Tướng anh hùng.
Quê hương ta mất dũng sĩ tận trung,
Và Tổ Quốc mất người hùng Mũ Đỏ.
Ba mươi năm,
Chiến trường ta còn đó,
Tư Lệnh ơi…Ông bỏ chúng tôi rồi ! ! !
Thế là xong…Thật ngắn ngủi kiếp đời,
Thoáng đấy, mới đây, gió trời mưa đất.
Vùng trắc ẩn rồi ai còn ai mất,
Nghĩa tử ly, oan khuất mủi thương mình.
Định thế nào, là thảm bại quang vinh,
Thua hay thắng, thường tình trong dĩ nghiệp.
Mỗi Mũ Đỏ là lương tri thông điệp,
Để toàn dân phải ngưỡng mộ tri ân.
Họ đã tặng đời tim óc, xác thân,
Trong biển lửa, giữa gian trần bạc bẽo.
Cánh Dù rơi… Nơi xứ người lạnh lẽo,
Thiên Thần buồn réo khúc nhạc bi ai.
Cánh dù bung từng ôm cả chí trai,
Gom hoài bảo miệt mài trang dũng kiệt.
Kính ông Tướng…Trời tạm dung đơn độc,
Ngưỡng mộ anh hồn bay bổng sao băng.
Nơi mù xa vùng sinh tử trầm thăng,
Ông thanh thoát đất vĩnh hằng vô tận"
Vĩnh biệt Tư Lệnh.
Vĩnh biệt Đích Thân!!!
Đinh Thế - 405
Thường Đức / Trương Dưỡng
Vào mùa thu năm 1974, áp lực địch tại Vùng 1 Chiến Thuật gia tăng khủng khiếp. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các tư lệnh quân, binh chủng bàn kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn Quân Khu, đặc biệt những điểm "nóng" như Huế, Chu Lai, và Đà Nẳng.
Tại mặt trận Thường Đức, Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến thắng vẻ vang trên ngọn đồi 1062. Tướng Cộng Sản Nguyễn Thị Định đã tuyên bố sẽ vào Đà Nẵng như chỗ không người. Tuy nhiên, lời tuyên bố này đã bị lực lượng Nhảy Dù xóa sổ và niêm phong. Viên tư lệnh lực lượng Bắc Việt tại Thường Đức đã mất chức do bị thiệt hại nặng nề.
Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo vớiquân Bắc Việt, các binh sĩ Nhảy Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại làm hầm hố vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức. Những hầm chữ A để chống bom được đào sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở bằng vách đá và cây rừng cổ thụ. Đường giây điện thoại chằng chịt như mạng lưới điện thoại ở thành phố Saigon. Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phát giác.
Dẫu thế, Phòng Truyền Tin của Sư Đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt được những mật điện quan trọng của địch và đã giải hóa một cách dễ dàng. Nhờ vậy họ đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến Bắc Việt tại Thường Đức.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đã quần thảo với địch trên những đỉnh núi cao liên tục hầu như không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi trùng điệp, hiểm trở, và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của họ. Từ chân núi nhìn lên đỉnh cao vời vợi, người lính Nhảy Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó khăn. Một bịch gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật gay go, gian nan, và khổ cực (phải dùng dây kéo lên). Nhất là nước đâu để có thể nấu ăn trên những rặng núi cao ngất từng mây.
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Đình Chiến được ký kết tại Paris, chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng. Hai sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (ở tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các căn cứ Ann (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ Nam cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 22 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 lúc này tương đối yên tĩnh. Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi phạm Hiệp Ước, họ mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì nhiều, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ thủ khó công, Thường Đức ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh dùng để chuyển vận quân dụng tiếp tế cho mặt trần Thường Đức này.
Trong vòng 2 năm, Bắc Việt đã không ngừng tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh và biến thành hệ thống tiếp vận này thành một "xa lộ không đèn." Mặt đường rộng hơn 10 thước đủ cho xe xận tải di chuyển cả hai chiều. Ngoài ra Cộng quân còn lập hệ thống dẫn dầu từ Bắc vào Nam, đi đến tận thị xã Lộc Ninh (ở tỉnh Bình Long). Họ cũng tăng cường việc chuyển vận bộ đội chính qui, vũ khí, và chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần so với lúc trước. Tình hình Quân Khu 1 đổi khác ngay vào cuối năm 1974. Áp lực địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải Vân.
SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN
Ngày 8 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn trực thuộc được di chuyển vào vùng hành quân ở Đại Lộc thuộc Đà Nẵng. Trước đó một ngày, Tiểu Đoàn 79 Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bị quân Bắc Việt gây áp lực nặng nề tại vùng trách nhiệm ở quận lỵ Thường Đức. Ngày 11 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn được lệnh di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đặt bản doanh tại gần bờ biển Non Nước, phía Đông Thành phố Đà Nẵng.
Một dãy núi cao chạy dài từ sông Vu Gia và Liên Tỉnh Lộ 4 về phía Bắc, những ngọn đồi thấp ở phía Nam của dãy núi này đã bị Trung Đoàn 29 Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ. Cho nên, mọi tiếp tế của đơn vị Biệt Động Quân xuyên qua đèo Thường Đức đã bị ngăn chận. Điểm cao nhất của dãy núi này là 1235 nằm cách Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 cây số về phía Bắc, và đỉnh 1062 ở phía Nam của Ðồi 1235 cách chỉ khoảng 2 cây số.
Bắc quân đã chiếm đỉnh đồi này để có thể quan sát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức, và họ đặt tiền sát viên điều chỉnh đại pháo bắn chính xác vào khu dân cư và các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Lộc. Nhiệm vụ của các đơn vị Nhảy Dù là phải chiếm đỉnh đồi 1062 và các cao điểm phía Nam tới Tỉnh Lộ 4. Và để giải tỏa sự hâm dọa tấn công các vùng phía Tây Đà Nẵng, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức.
Ngày 18 tháng 8/1974, ba tiểu đoàn 1, 8, và 9 nhảy Dù vừa vượt tuyến xuất phát thì đã chạm súng với những đơn vị thuộc Trung Đoàn 29 CSBV ở phía Đông Đồi 52 (xã Hà Nha). Chính nơi đây Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã phải rút lui chiến thuật do áp lực địch quá đông đảo và vũ khí tối tân hơn. Sau một tháng đánh nhau với 3 tiểu đoàn Nhảy Dù, hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Mặt Trận B3 của Cộng Sản ra lệnh Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 CSBV tới Thường Đức để tiếp ứng cho Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 CSBV. Như vậy Trung Đoàn 66 có thế giúp đỡ Trung Ðoàn 29, để họ rảnh tay tấn công các đơn vị Nhảy Dù.
Đầu tháng 9/1974, Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV, còn được gọi là sư đoàn "Ðiện Biên") cũng nhập vào trận chiến. Ngày 19 tháng 9/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Trong khoảng thời gian 2 tuần lễ khi quân đội đã làm chủ ngọn đồi 1062, thì Bắc Việt cho Trung Đoàn 66 hợp với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 24 (thiếu quân số) định dùng số đông để áp đảo Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù.
Vào ngày 2 tháng 10/1974, Tiểu Đoàn 2 và 9 Nhảy Dù đang lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà thì họ tìm được khoảng 300 xác bộ đội Bắc Việt trên đỉnh 1062 trong giai đoạn 1 này. Ngoài ra, họ bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Ðoàn 304.
Suốt vài tuần sau, các binh sĩ Nhảy Dù đã chống trả rất nhiều các cuộc tấn công của Sư Ðoàn 304 khi địch quân định giành lại đồi 1062. Bởi sự điều khiển phi pháo chính xác của các sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, nên các đơn vị này vẫn giữ vững đồi 1062 mặc dầu quân Bắc Việt đã pháo kích mãnh liệt và xử dụng chiến thuật biển người định tràn ngập ngọn đồi này. Một trường hợp ngẫu nhiên, khi Trung Ðoàn 24 CSBV đang xâm nhập vào vùng tử địa ở dọc theo đồi 383 và 126 thì bị hỏa lực tập trung của pháo binh Việt Nam Cộng Hòa đồng loạt khai hỏa. Cuộc pháo kích này đã gây cho 250 bộ đội miền Bắc bị thiệt mạng.
Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với hai sư đoàn địch quân, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù (gồm 4 tiểu đoàn tham chiến) đã bị tổn thất vừa chết và bị thương khoảng 500 binh sĩ. Trong khi đó địch quân bị thiệt mất trên 1,200 người.
Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung Ðoàn 24 CSBV, sau khi được tái bổ sung và tái trang bị, đã mở một cuộc tấn công khác vào đỉnh đồi 1062. Họ dùng súng phóng hỏa đốt cháy dữ dội khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi này.
VNCTLS Ghi Chú: Sau khi đăng tải bài viết Mặt Trận Thường Đức một thời gian khá lâu, chúng tôi nhận được email của một cựu chiến binh Bắc Việt. Trong thư, ông cho biết đã từng tham gia trận đánh này từ đầu đến cuối. Và ông cũng cho biết thêm một ít chi tiết về trận đánh ở Thường Đức. Chúng tôi xin trích đăng một phần lá thư này cùng quý vị độc giả.
"Tôi là một người tham gia vào chiến dịch Thượng Đức từ đầu đến cuối, nhưng ở phía bên kia chiến hào. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bài viết của ông rất chi tiết về chiến dịch này. Trong đó ông chưa nêu được vai trò và thành tích của Không Quân VNCH. Họ đã gây không ít tổn thất, nếu không nói là nặng nề, cho phía chúng tôi trong khi tấn công căn cứ Thường Đức.
Một chi tiết không chính xác là Không Quân diệt được xe tăng của chúng tôi là không đúng, vì bên này chẳng có một chiếc xe tăng nào hết. Biệt Động Quân (Tiểu Đoàn 79) rất đáng khen là họ chiến đấu rất gan lì và không đầu hàng sau 9 ngày chống cự. Từ trận Dakpek, phía chúng tôi rút được kinh nghiệm dùng đại bác bắn trực xạ nên các trận chiến đều được áp dụng lối này, rất có hiệu quả như ông Dưỡng mô tả.
Tôi không đồng ý với ông Dưỡng là phía Bắc quân luôn dùng chiến thuật biển người. Tấn công Thượng Đức trực tiếp chỉ có Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304. Một trung đoàn của Sư Đoàn 324 (đã hạ đồn Dakpek) không trực tiếp tấn công, chỉ dàn quân chờ đánh tiếp viện. Sau khi lấy được Thường Đức, Trung Đoàn 66 thiệt hại 3/4 quân số và sau này là lược lượng chính tiếp cả 3 lữ đoàn Nhảy Dù. Trong trận lấy lại ngọn 1062 ngày 29 tháng 10 năm 1974, đại đội của tôi chỉ có 27 tay súng đã giành lại 1062.
Trận này, chúng tôi kéo 1 khẩu súng chống tăng 85 mm bắn trực xạ, súng 14.5 mm phòng không 4 nòng, hạ nòng yểm trợ bộ binh. Khi chiếm được 1062, chỉ còn 5 người trong đó có tôi, đến ngày 31 tháng 10 đại đội tôi chỉ còn 1 người trên đỉnh 1062.
Tôi đồng ý với ông (tác giả), tới thời điểm này cả hai phía đã hết "sinh lực." Nếu như quân Nhảy Dù còn sức, tôi nghĩ các ông có thể lấy lại Thường Đức. Phía bên này (Bắc Việt) không biết là các ông cũng đã "hết sinh lực" như ông mô tả, mà nghĩ là quân Dù phải rút đi để hỗ trợ cho Buôn Mê Thuột vừa bị thất thủ.
Mong chờ bài viết tiếp của ông, và cảm ơn.
Một cựu chiến-binh Bắc Việt tại mặt trận Thường Đức
(Trung Đoàn 66/Sư Đoàn 304)
Ngày 1 tháng 11/1974, Ðồi 1062 lại một lần nữa bị địch chiếm giữ. Trong khi ở Bắc Hải Vân, áp lực địch rất nặng vì quân Nhảy Dù bị rút đi. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng không chấp thuận đề nghị kéo quân Nhảy Dù về bảo vệ Bắc Hải Vân. Ông ra lệnh cho Tướng Lê Quang Lưỡng (tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) phải lấy lại Ðồi 1062 với bất cứ giá nào. Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 8 tháng 11/1974, và chỉ 3 ngày sau, các đơn vị Nhảy Dù đã chiếm lại đồi 1062.
Dẫu cho cuộc giằng co giữa hai bên còn kéo dài thêm vài tuần nữa, lực lượng Nhảy Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, cuộc chiến đấu đẫm máu nhất từ ngày ký Hiệp Định Ngừng Bắn coi như chấm dứt. Sư Đoàn Nhảy Dù bị hy sinh gần 500 chiến sĩ, và khoảng 2,000 người bị thương. Địch quân chết 2,000 và bị thương 5,000 người (theo tài liệu của Colonel William E. LeGro trong Vietnam from Cease-Fire to Capitulation).
Bảy tiểu đoàn Nhảy Dù đã lâm chiến suốt 3 tháng, và vào trung tuần tháng 10/1974, sáu tiểu đoàn đã lần lược ngự trị ngọn đồi máu 1062 này. Ðịch quân đã dòm ngó quân Nhảy Dù trên đỉnh 1235, nhưng Tướng Lê Quang Lưỡng không đủ lực lượng để kiểm soát luôn dãy đồi cao này. Ðồng thời địch quân vì tiêu hao quá nhiều nên cũng không dám trở lại tấn công đơn vị thiện chiến này của Việt Nam Cộng Hòa.
Vào cuối năm 1974, chỉ còn Tiểu Ðoàn 1 và 7 Nhảy Dù ở lại giữ vùng 1062 này. Họ đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm, khoảng 4 cây số phía Đông 1062. Mùa mưa đến, cả hai bên cần thời gian để chuẩn bị cho mùa khô kế tiếp.
DIỄN TIẾN CHI TIẾT
Cộng quân lần lượt tấn chiếm các xã, quận, và căn cứ quân sự của ta ở Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi. Sự việc mất các đồn lũy xảy ra thường xuyên. Câu nói thông thường lúc bấy giờ là "mất liên lạc. "Quận A mất liên lạc," "đồn B mất liên lạc, v.v." Mất liên lạc cũng đồng nghĩa với "di tản chiến thuật" hồi trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, và mọi người đều hiểu quân ta đã rút lui và địch đã chiếm mất rồi. Ngay cả khu đồng bằng Quảng Đà, nơi có bản doanh Quân Đoàn 1 và phi trường lớn Đà Nẵng cũng bị lay động, lâm nguy.
Quận lỵ Thường Đức bị "mất liên lạc," phi trường Đà Nẳng và bản doanh Quân Đoàn 1 thường xuyên bị pháo kích. Các đơn vị địa phương hầu như bị địch bao vây tấn công tràn ngập và mất liên lạc nhiều nơi. Áp lực địch nặng nề đến nỗi dân Đại Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau chạy ra thị xã Đà Nẵng.
Ngay khi hay tin Thường Đức bị thất thủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã biết rõ ý đồ của địch. Ông cho rằng chúng định lợi dụng địa thế hiểm trở chiến lược của vùng rừng núi trùng điệp xung quanh đồi 1062, bày binh bố trận để cầm chân các đơn vị thiện chiến tổng trừ bị. Do đó Tướng Trưởng đã cho lệnh di chuyển pháo binh nặng của Quân Đoàn 1, gồm các pháo đội đại bác 175 ly và 155 ly tới Đại Lộc, gần Thường Đức. Ðồng thời ông điều động 2 lữ đoàn Dù (không đủ quân số) vào tăng cường nhằm thanh toán hai sư đoàn chính qui Cộng Sản Bắc Việt. Đây là trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt kể từ khi Hiệp Định Ðình Chiến Ba Lê có hiệu quả vào ngày 27 tháng 1/1973.
Vào thời điểm 1973-74, biết mình không còn là lực lượng trừ bị để phản ứng khi cần, Tướng Lê Quang Lưỡng đã tâm sự với các sĩ quan tham mưu, "Lực lượng mình đang bị cầm chân dọc theo dãy Trường Sơn. Bây giờ nếu địch tấn công và chọc thủng phòng tuyến, tràn theo hành lang sông An Lỗ vào đồng bằng Trị Thiên. Anh em mình chắc chỉ còn đường ra biển."
Mối lo không có lực lượng trừ bị là một dằn vật thường trực với vị tướng tư-lệnh trẻ tuổi này. Quả vậy, đấy chỉ là nói giả dụ tới việc địch tấn công vào khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù thôi. Nếu địch thọc sâu cắt đứt đèo Hải Vân làm cho Nam, Bắc Hải Vân không còn tiếp ứng được cho nhau nữa thì sẽ ra sao? Chắc ước tính của Quân Đoàn 1 là cuộc tấn công sắp tới của địch sẽ theo trục Bắc-Nam giống như cuộc tấn công vào mùa hè năm 1972. Do đó, Quân Ðoàn 1 đã dồn nỗ lực đào hầm, đặt chướng ngại vật chống chiến xa ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, chuẩn bị phòng thủ rất chu đáo.
Riêng tướng Lê Quan Lưỡng và bộ tham mưu Sư Đoàn Nhảy Dù không đồng ý như vậỵ Cuộc tấn công lần này của địch chắc không tốn kém, hao tổn sức lực như năm 1972, mà chúng chỉ cần chọc mũi dùi thật lẹ và mạnh từ Tây sang Đông, cắt đứt khu vực Quân Đoàn 1 làm đôi ở đèo Hải Vân thì sẽ dụ lực lượng trừ bị tới giải tỏa. Như vậy coi như một chiến thắng đáng kể của họ rồi.
Với mối lo âu ấy, làm sao có được trong tay lực lượng trừ bị khá mạnh để có thể phản ứng ngay khi tình hình đòi hỏi? Và sau đây là kế hoạch để có quân trừ bị của Sư Đoàn Nhảy Dù:
Giảm quân số tại hậu cứ, các văn phòng, các đơn vị hành chánh, yểm trợ tiếp vận, và ngay cả trung tâm huấn luyện cũng phải giảm bớt để dồn ra vùng hành quân. Chuyển 2,000 thặng số quân y cho bệnh viện Cộng Hòa quản thúc (nhờ vậy quân đội có thêm hai ngàn binh sĩ để bổ sung và tăng cường). Tại khu vực hành quân, các tiểu đoàn cũng trích quân số để lập thành những đại đội đặc biệt.
Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù được chỉ định huấn luyện kỹ thuật tác chiến (từ quy ước tới không quy ước), ngay cả kỹ thuật đặc công, và được mang danh hiệu là các "Đại Đội Đa Năng."
Việc thành lập và huấn luyện các đại đội đa năng này làm các ông trong tòa Đại Sứ Mỹ quan tâm, thắc mắc nhiều. Các phái đoàn tùy viên quân sự ngoại quốc tới thăm Sư Ðoàn Nhảy Dù đều đặt câu hỏi về đơn vị đa năng:
• Ngân sách nào cung ứng để thành lập?
• Lập các đơn vị này để làm gì ?
• Có bao nhiêu đơn vị đa năng ?
• Ở cấp nào ? đại đội hay tiểu đoàn ?
• Tại sao lại gọi là Đa Năng ?
Ban tham mưu sư đoàn đã được Tướng Lưỡng ra lệnh cứ giải thích cho họ biết. Chính phủ và quân đội không mất đồng xu nào để có được các đơn vị này, kể cả trang bị. Tất cả đều nằm trong phương trình như x=a+b+c. Và chúng tôi có 12 đại đội đa năng trong Sư Đoàn Nhảy Dù. Nếu gọi các đơn vị này là "d" thì a+b+c+d cũng vẫn bằng x thôi.
Và cuối năm 1973, Sư Ðoàn Nhảy Dù đã có trong tay 12 đại đội đa năng dùng làm trừ bị. Lúc cần thành lập tiểu đoàn, lực lượng này sẽ là 3 tiểu đoàn hay một lữ đoàn trừ bị. Với lực lượng đa năng này, vùng đóng quân của bộ chỉ huy và bản doanh sư đoàn có thêm sự an toàn, có thể dẹp yên mọi quấy rối của địch, kể cả du kích ở hậu tuyến.
Tình hình tổng quát vào thời điểm giữa năm 1974: tình hình Bắc Hải Vân tương đối yên tỉnh, trong khi vùng Nam Hải Vân rất sôi động và nguy ngập. Thượng tuần tháng 7/1974, Sư Ðoàn Nhảy Dù nhận được lệnh khẩn cấp từ Quân Đoàn I là đưa ngay lực lượng Nhảy Dù vào Quảng Đà, chỉ để lại một lữ đoàn ở Bắc Hải Vân cho dân chúng khỏi hoang mang rúng động.
Tướng Lưỡng lệnh cho Sư Đoàn Nhảy Dù gồm Lữ Ðoàn 1 và 3 vào Đà Nẵng. Trước khi đi ông nói với ban tham mưu: "Mình sẽ vào Đại Lộc. Lấy được quận Thường Đức địch sẽ đánh thẳng vào Đà Nẵng!"
Chỉ tay vào bản đồ Tướng Lưỡng nói tiếp:
- Sau khi các bộ phận của mình đã vào tuyến xuất phát. Ta sẽ cho nỗ lực chính tiến theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính sẽ là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng cho Lữ Ðoàn 1.
Tình hình quân Bắc Việt lúc bấy giờ là Sư Ðoàn 324 đang chiếm đánh Thường Đức. Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và một tiểu đoàn Đa Năng ở lại trấn giữ phía Bắc đèo Hải Vân. Trên phương diện tình báo, khi các cánh quân Nhảy Dù tới tuyến xuất phát, kiểm thính qua giàn máy vô tuyến điện báo của sư đoàn. Bất ngờ vào đúng tần số liên lạc của đối phương. Nghe chúng báo cáo với nhau như sau:
"Ngụy Dù đang ở Tây Đại Lộc. Tiểu Ðoàn 1 tại xã..., Tiểu Ðoàn 9 đang di chuyển từ A tới C. Tiểu Ðoàn 8 đang ở làng..."
Báo cáo của địch rất chính xác về vị trí của các đơn vị Nhảy Dù. Đại Úy Phước, sĩ quan truyền tin sư đoàn, ngoài đặc tính siêng năng, cần mẫn, và cẩn thận, anh còn rất thích thú dò tìm tần số liên lạc của địch. Khi những báo cáo của chúng ngưng, anh lại rà máy tìm ra địch ở tần số khác và tiếp tục nghe được các báo cáo của chúng về Nhảy Dù.
Biết được như vậy, Tướng Lưỡng sửa đổi kế hoạch. Ông cho lệnh Lữ Ðoàn 1 cứ để các tiểu đoàn chính ở chỗ mà địch đã biết, ông tung các đại đội Đa Năng 19, 21, 27 bất ngờ tấn chiếm các cao điểm; di chuyển về trái, tiến sâu về phải. Cứ hoán chuyển vị trí liên tục cho đến khi tới sát được Thường Đức. Và các báo cáo của địch sau này cho thấy có sự bỡ ngỡ, hoang mang. Nghe địch hỏi nhau là các đơn vị của Dù hay của các đơn vị khác tới tăng cường?
Hết lệnh cho các Đại Đội Đa Năng 19, 21, 27 lại đến lệnh cho Đa Năng 1, 2, 3... tung quân đột kích nhiều hướng. Thế là địch không còn báo cáo chính xác vì sự biến hóa linh động của các đơn vị này.
Trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa ta và địch kể từ khi có Hiệp Định ngưng bắn 27 tháng 1/1973, khi Lữ đoàn 1 Nhảy Dù và các đơn vị tăng cường xuất trận vào thay thế Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 Bộ Binh.
Ngay khi đoàn xe chở quân vừa tới làng Hà Nha 1 ở dưới chân núi cách Thường Đức 10 cây số về hướng Đông, Cộng quân đã pháo kích bằng nhiều loạt đạn khác nhau. Một số dân chúng chạy theo lính Địa Phương Quân, thấy Nhảy Dù đến liền ngừng lại. Một niềm tin mãnh liệt chợt bừng lên đối với những người dân khốn khổ sống trong vùng rừng núi hoang vu này. Đi đâu thì cũng "đất cày lên sỏi đá!" Họ chỉ có một hy vọng nhỏ nhoi là trở lại sinh sống trong những căn nhà tranh với những luống ngô khoai bên triền núi cao, mà họ đã đổ mồ hôi canh tác trong nhiều tháng qua.
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Khóa 15 Ðà Lạt (lúc đó là lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù) một sĩ quan trẻ tuổi tài ba. Ông từng lập nhiều chiến tích trong sư đoàn Nhảy Dù, trận Đại Bàng 800, trận Mậu Thân, trận Hạ Lào, hành quân tái chiếm Quảng trị. Nhất là trận An Lộc ở tỉnh Bình Long, ông đã chỉ huy Tiểu Ðoàn 6 đổ bộ trực thăng vào Đồi Gió, sau đó đã mở đường máu từ Tân Khai, Xa Trạch, lên Xa Cam bắt tay với Tiểu Đoàn 8 trong thị xã An Lộc.
Trong Giai Đoạn 1, Trung Tá Đỉnh ra lệnh Tiểu Đoàn dọc theo Tỉnh Lộ 4 chiếm làng Hà Nha và bảo vệ cánh trái. Đại Ðội 83 của Đại Úy Hiệu được lệnh đánh chiếm hai làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 để giải tỏa đồn Địa Phương Quân, cứ điểm cuối cùng của lực lượng phòng thủ trong quận Đại Lộc này. Khi vừa gần tới bờ làng, họ gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch. Thấy đơn vị vừa mới xuống xe, binh sĩ chưa ăn uống, bên kia sông Việt Cộng lại đặt đại bác không-giật bắn vào, Ðại Úy Hiệu đề nghị rút lui để cho Pháo Binh dập, nhưng Thiếu Tá Vân (tiểu đoàn trưởng của Tiểu Ðoàn 8) sợ dân làng bị liên lụy nên thúc Hiệu cứ tấn công vào.
Chấp hành lệnh, Hiệu dàn cả hai trung đội xung phong thần tốc, địch hốt hoảng bỏ chạy. Ta chiếm được làng Hà Nha với một giá rất đắt: hai trung đội trưởng tài giỏi nhất của Hiệu là Thiếu Úy Tiến và Thiếu Úy Thành bị hy sinh. Đại Úy Hiệu hoàn thành nhiệm vụ nhưng lòng rất xót xa.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù chiếm đỉnh cao Đông Lâm trên dãy Sơn Gà bảo vệ sườn phải. Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đi trục chính đánh chiếm đám rừng tràm, hướng về mục tiêu là Ðồi 1062.
Giai đoạn 2, Tiểu Đoàn 8 làm nỗ lực chính, chia quân hai cánh, cánh phải do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy tiến về hướng điểm C thay thế Tiểu Ðoàn 1 trên đỉnh Sơn Gà, mục tiêu là đồi 1062.
Thiếu Tá Vân cho lệnh Đại đội 81 của Đại Úy Võ Thế Hùng đi đầu. Bọc hậu có Đại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm." Tiểu đoàn trừ do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy, anh cho Đại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu đi chính diện, và Đại Úy Đồng Văn Minh dẫn đại đội 84 đi sườn phải, tiến lên hướng 1062.
Thành phần nỗ lực chính của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung trận, khi các đơn vị vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, thì chạm địch mạnh với quân số áp đảo, họ phải giành giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức.
Đoạn đường dài hơn 5 cây số, bên trái là sông Vu Gia, bên phải là những triền núi thuộc dãy Sơn Gà. Chiến xa và pháo binh Cộng Sản bố trí bên kia sông có lẽ để giữ Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Chủ lực quân của địch tập trung trên các đỉnh cao phía sau quận Thường Đức. Họ đang chiếm giữ các đỉnh 1062, điểm cao 1235, 383, 293, 126, và đóng chốt dọc theo các sườn núi.
Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
Giai đoạn đầu, đội hình tấn công của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù như sau:
• Tiểu Đoàn 9 giữ trục chính ở giữa
• Tiểu Ðoàn 8 đi cánh trái, dọc theo trục lộ sát bờ sông Vu Gia, tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52)
• Tiểu Ðoàn 1 đi cánh phải, tiến chiếm cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Gà tiến hướng Tây tới 1062.
• Tiểu Ðoàn 9 giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi che phủ.
Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn (đại đội trưởng Ðại Ðội 92), Trung Úy Thăng (đại đội trưởng Ðại Ðội 94), Đại Úy Trọng (đại đội trưởng Ðại Ðội 91), cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tửu muốn đến đồi 383 để tiến sát tới đỉnh 1062, họ còn phải băng qua một cánh rừng tràm nữa. Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9không sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân nên Đại Úy Tường từ Ðại Ðội 90 ra thay thế.
Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, từ Hội An được lệnh di chuyển đến bàn giao với Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại một đồi thấp ở phía Nam Đông Lâm khoảng 3 cây số. Họ đi cánh phải của Lữ Đoàn, mục tiêu đầu là đỉnh Đông Lâm. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của quân Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn.
Thiếu Tá Quý (tiểu đoàn phó) chỉ huy 2 đại đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà. Một trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại "mìn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Ðại Ðội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì mìn hơi này.
Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Dù hoàn toàn thụ động trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những đỉnh đá.
Một điều quan trọng là tiền quân của Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Thể đã tìm được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đã chết (cụt chân do mìn hơi) và một người còn sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đóvị trí các lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa.
Đáng lý theo dự tính, Đông Lâm là điểm hẹn giữa Ðại Ðội 11 của Ðại Úy Thể và Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ đi với Thiếu Tá Quý. Nhưng vì không chạm địch nên hai đại đội này trực chỉ tới mục tiêu B.
Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Ðoàn 1 (lợi thế hơn 2 cánh quân bạn) tiến quân trên đường đỉnh dãy Sơn Gà. Ðịa thế đủ rộng cho hai đại đội đi đầu, và tốc độ tiến quân cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn 1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho lữ đoàn. Quả thật vậy, qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho cho lệnh Đại Ðội 11 "đạp" xuống cứ điểm B, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Ðoàn 9.
Xuyên qua thung lũng, Ðại Úy Thể dẫn quân đến B một cách bất ngờ, và ở ngay sau lưng địch. Đối diện với Cộng quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, Đại Ðội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Quân Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, Ðại Ðội 11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. Sau này Tiểu Ðoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Trời đà chạng vạng tối, chờ bắt tay mãi với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Một biến cố xảy ra đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến hy sinh đêm đó. Sáng hôm sau, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14 bắt tay với Ðại Ðội, đồng thời Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Có lẽ cứ điểm C mới thật là một tiền đồn mạnh mẽ của quân Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch trước khi tới C. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của Đại Úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Công sự phòng thủ của địch thật vô cùng kiên cố, lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn. Ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn.
Suốt 3 ngày cầm cự, Ðại Ðội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Ðại Ðội 11 bám sát tiến lần vào cách C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu đạn. Nhờ địch tưởng ta tấn công mặt Nam, nên Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quý cho tập trung 5 khẩu đại liên M-60, chờ bắn hơi cay cho địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
Ðại Ðội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Ðại Ðội 11 và Ðại Ðội 14 phải trả giá rất đắt cho đỉnh 1062.
Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở: rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Tình thế hiện tại thật bất lợi. Lúc đó Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố.
Lúc bấy giờ ta chưa biết là có 5 đỉnh nhỏ trên 1062, vì bản đồ chỉ có một dấu chữ thập bên cạnh số 1062. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng cảm tử gồm 2 trung đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một trung đội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một trung đội của Ðại Ðội 11. Đây là 2 sĩ quan xuất sắc đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho tiểu đoàn. Ðại Ðội 11 (thiếu quân số) làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Ðại Ðội 11 do Thiếu Tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm táu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình.
Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của bên đó nghe rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch. Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (tiểu đoàn trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Sau nầy mới biết là Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D. Đáng phục thay một binh sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận núi sông.
Các binh sĩ thuộc hai trung đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Địch định lấy thịt đè người. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) một phen vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách chọn lựa nào khác.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Nhờ vậy các binh sĩ Ðại Ðội 11 được giải tỏa, xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi ngày mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062, nhưng D1 và D2 ở phía Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì thế Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và sợ nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị cháy thành than như đã nói ở phần trên.
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy (37) bị thương trong đó có Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An (sĩ quan Khóa 26 Đà Lạt).
Trong khi đó bên Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ (sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt) và Ðại Ðội 15 của Đại Úy Lộc (sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt) đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (truyền tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Bước tiến quân của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù trong giai đoạn đầu đến sát chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù. Sau đó Thiếu Tá Phú "đen" đến thay thế làm tiểu đoàn phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù.
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ Quảng Trị về nghỉ dưỡng quân và tái trang bị được 2 tuần thì có lệnh đi hành quân trở lại, vùng hành quân là Thường Đức. Đúng 6 giờ sáng, tại trại Trần Quy Mại, đơn vị được trang bị đầy đủ cấp số đạn dược, quân trang, quân dụng, lương thực. Những người lính lên xe GMC ra phi trường Tân Sơn Nhất. Năm chiếc vận-tải cơ C-130 chở quân đáp xuống phi trường Đà Nẳng độ 12 giờ trưa, và đoàn xe vận tải GMC chở họ đến quận Đại Lộc.
Trong khi binh sĩ lo nghỉ ngơi, nấu nướng, thì các sĩ quan từ đại đội trưởng trở lên vào họp khẩn cấp về cuộc hành quân giải tỏa quận Thường Đức. Sau khi mọi người đứng dậy chào vị chủ tọa là Tướng Lê Quang Lưỡng, các sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Phòng 4 thuyết trình chi tiết về cuộc hành quân.
Tướng Lê Quan Lưỡng trực tiếp ra lệnh các đơn vị:
- Các anh phải chiếm các cao điểm và đánh bật địch ra khỏi khu vực nầy. Muốn như vậy các anh phải đánh địch từ đàng sau lưng, hoặc bọc ngang hông để cắt đứt đường tiếp tế và viện binh.
Ông vừa nói vừa chỉ lên bản đồ hành quân và tấm bảng đen chỉ rõ rành mạch. Đây là lần đầu tiên các sĩ quan cấp nhỏ được nghe lệnh trực tiếp từ vị tư lệnh sư đoàn, mọi người đều hiểu rằng cuộc hành quân nầy thật quan trọng và đầy cam go.
Sau thời gian họp khoảng 45 phút, các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 tiếp tục lên xe chạy tới điểm xuất phát cách làng Hà Nha độ 1 cây số về hướng Đông. Lúc đó vào khoảng 5 giờ 30 chiều cùng ngày, Ðại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu, sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt, được lệnh đánh chiếm Hà Nha. Ðại Ðội 84 của Đại Úy Đồng Văn Minh, sĩ quan Khóa 26 Thủ Ðức đi cánh phải chiếm ngọn đồi nhỏ ở phía Bắc Hà Nha.
Hiệu cho lệnh Trung Đội 1 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (tự Tiến Trâu) dẫn đầu, cho tổ khinh binh dọc theo bờ sông di chuyển theo đội hình chân vẹt yểm trợ cho nhau tiến vào làng. Trung Đội 2 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Thành đi cánh phải kẹp theo Tỉnh Lộ 4 tới dàn quân tại gò mả, sẵn sàng yểm trợ Trung Đội 1.
Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức và Trung Đội 4 của Chuẩn úy Thạch Huôn làm thành phần trừ bị. Lúc mới xuống xe, Hiệu gặp một tiểu đoàn thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa từ Thường Đức đi ra, trong đó có một đại đội trưởng là Trung Úy Nguyễn Văn Nghĩa, sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt. Hai bạn cùng Trường Mẹ gặp nhau mừng mừng lo lo, Nghĩa bảo Hiệu:
- Niên Trưởng phải cẩn thận, địch đông lắm, chúng đang bám sát tụi tôi, chúc "chiến thắng."
Trước khi vào mục tiêu, Hiệu nghe máy gọi:
- Đa Hiệu đây 808 (danh hiệu của Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Vân), trả lời.
- Đa Hiệu (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Phạn Văn Hiệu) tôi nghe đích thân.
- Lệnh trên bảo anh phải thanh toán mục tiêu ngay bây giờ, anh là "cử nhân binh bị" (Võ Bị 4 năm tương đương bằng cử nhân) không thể chậm trễ đừng làm mất mặt nghe.
Khi Trung đội 1 vào gần tới bờ làng thì quân Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Tiến dẫn toàn bộ trung đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Hiệu cho bố trí và làm hầm hố phòng địch phản công. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác, một xe GMC của Sư Đoàn 3 Bộ Binh chạy lộn chiều ngang qua Ðại Ðội 83, lập tức bị bắn cháy, tài xế may mắn chạy khỏi vô sự.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ có hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Tiến và Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân Bắc Việt cứ nhào tới định lấy thịt đè người tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai anh ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời 2 người hùng của Ðại Ðội 83.
Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số ít tù binh.
Cũng nên nhắc lại rằng làng Hà Nha 1 và 2 là những làng rất nghèo nàn, có khoảng 20 căn nhà (nói là nhà nhưng thật ra đó chỉ là những túp lều tranh nhỏ bé), địa thế trống trải, nên xạ trường quan sát của địch rất tốt, Cộng quân bắn trực xạ bằng đại bác thật chính xác. Chính sĩ quan và một số binh sĩ ta đã bị tổn thất vì loại súng trực xạ này.
Ở làng Hà Nha khoảng 4 ngày, Ðại Ðội 83 được bổ sung hai sĩ quan và một số binh sĩ mới (trong đó có Thiếu Úy Tiến, Hại Sĩ Hải, và Binh Nhất Châu Văn Lê) để chuẩn bị làm nỗ lực chính tấn chiếm đỉnh 1062 sắp kể sau đây:
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Đại Úy Hùng vừa đi học khóa Đại Đội Trưởng ra tăng cường hành quân. Hùng xuất thân từ gốc Thiếu Sinh Quân, anh rất gan dạ đã sát cánh cùng các Đại Úy Minh, Hiệu, và Trung Úy Nam từng lập nhiều chiến tích ở các cuộc hành quân Hạ Lào, Cam Bốt, và An Lộc.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, sĩ quan Khóa 13 Thủ Ðức, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiên 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu là đỉnh đồi 1062. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán, sĩ quan Khóa 18 Ðà Lạt, chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, sĩ quan Khóa 26 Ðà Lạt, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị thương.
Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (từ Đại đội 84 chuyển qua bổ sung cho Tiến "trâu" và Thành vừa hy sinh ở làng Hà Nha) dẫn Trung Ðội 3 của Hiệu đi bọc phía sau định leo lên mục tiêu D. Bỗng nghe bịt, bịt, bịt, ba trái lựu đạn từ trên đỉnh 1062 ném xuống mà tịt ngòi không nổ. Nhưng quả thứ tư trúng ngay Tiến, làm thân hình anh bị tung lên như quả bóng. May nhờ áo giáp nên chỉ bị thương nặng và được binh sĩ kéo về phía sau và phải di tản.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, thảm nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.
Để biết rõ chi tiết trận chiến, chúng ta hãy theo một đơn vị cấp đại đội (Ðại Ðội 83) làm cách nào để đánh chiếm đồi 1062:
Hiệu dẫn đại đội xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng mỗi lần hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Ngày N+4 (sau 4 ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù), vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để phòng thủ.
rợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Tiểu Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (tiểu đoàn trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (tiểu đoàn phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi.
Chiều hôm đó, một buổi chiều nắng vàng và gió lộng, không còn tiếng nổ trong trận địa, những mỏm núi bốc lên những sợi khói nhỏ, nóng không phải vì hơi oi bức của mặt trời mà là âm ỉ của hơi thuốc súng chưa kịp tan.
- "Thiếu Tá." Binh sĩ truyền tin của Trương Văn Vân nói. "Đại Úy Đàng gọi."
- Trình đích thân, từ sáng giờ yên tĩnh nhưng binh sĩ tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi.
Vân nói:
- Anh cho các con gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế phòng địch tấn công bất ngờ.
- Nhận rõ, đích thân.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của đại đội Đàng. Trong nắng chiều, Vân và Bộ Chỉ Huy đứng trên đỉnh 1062 theo dõi châm chú trận đánh của Đại Ðội 34. Cối 75 ly và sơn pháo từ những cao độ phía tây bắc bắn từng nhịp 4 trái một và bộ đội Bắc Việt từ hướng tây, tây bắc, đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Binh sĩ của Đàng thi nhau dùng súng phóng lựu từ đồi cao 1063 bắn xuống. Một quả đạn bay đi khoảng ngắn, đất cát bay lên, 3 cán binh Điện Biên mất hút trong bụi mù. Chết, sinh Bắc tử Nam.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt, với chiến thuật biển người. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Úy Ngụy Văn Đàng đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1063 và đồi không tên. Đỉnh 1062 trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn. Và trong hoang vu hấp hối của cỏ cây đó, hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên, những bộ đội Bắc Việt vang danh một thời cùng ào lên 1062 một lượt, những cặp chân đã vượt đèo Mụ Già qua Tchepone, Lao Bảo, những bàn chân rách nát chạy nhanh hơn, mau hơn. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
- Bom! Bom! Đốt cháy tụi nó cho hết. Trung Tá Đồng nói như thét.
- Yes sir! Anh Sĩ quan liên lạc không quân vừa nghe được tiếng "bom," và anh đã lập tức gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống sườn đồi.
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt tràn lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục. Địch bị tiêu hao nhiều do đạn pháo kích TOT (Time On Target, tức là pháo binh bắn tập trung vào một mục tiêu, cùng một lúc) nên tức giận chĩa lưỡi lê đâm nát thân thể Đại Úy Đàng.
Đại Ðội 34 của Đại Úy Võ Thiên Thư, (Khóa 25 Võ Bị Ðà Lạt), lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Võ Thiên Thư, Tô Văn Nhị (Khóa 26 Võ Bị Ðà Lạt) đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, tiểu đoàn phải rút ra để phi pháo bắn ngày đêm. Mặc dù Cộng quân đã chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, nhưng phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Các loại đạn CVT (Controlled Variable Time, tức loại đạn pháo binh từ trên cao chụp xuống điểm tập trung của địch quân), cùng đạn nổ dọn bãi cho Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù vào thay (Tiểu Đoàn 9 vừa rút ra một ngày chưa kịp trang bị bổ sung đã được lệnh cấp tốc trở lại tiếp ứng Tiểu Ðoàn 3). Tiểu đoàn 9 Dù cũng dùng chiến thuật dương đông kích tây, và nỗ lực chính kỳ nầy do Đại Úy Tường (đại đội trưởng Đại Đội 93) và Trung Úy Nhơn (đại đội trưởng Đại Đội 92) tiến đánh từ trên cao xuống.
Bên sườn dốc đứng, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ cho bày binh bố trận rùm beng, khiến phía Bắc Việt tưởng Nhảy Dù lên mặt nầy nên bắn giàn thung buộc giấy khiêu chiến: "Thách ngụy Dù lên đánh."
Tường biết địa thế đồi 1062 kiên cố, hầm hố toàn bằng những thân cây rừng to lớn, phi pháo không làm gì được. Anh vội phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc Bắc quân chui ra khỏi hang rồi xin thả bom lửa Napalm đốt họ tan tành. Anh không dại xua quân vào miệng cọp, chỉ dùng đạn cay và bom Napalm, rồi bao vây chận nguồn nước và tiếp tế, khiến địch chịu không nổi. Hai bên cứ giằng co chiếm qua chiếm lại mỗi bên 2, 3 lần và quân số 2 bên tiêu hao rất nhiều.
Đỉnh đồi 1062 lúc đầu toàn là rừng cây cổ thụ, sau những ngày 2 bên thay nhau làm chủ, nay trở thành đồi trọc, xơ xác, tan hoang.
Tiểu Đoàn 9 phải bằng mọi giá quyết xung phong nhào lên chiếm đỉnh nầy. Gần một tuần lễ sau, với nhiều cuộc chiến đấu ác liệt bằng phi pháo, lưỡi lê, và lựu đạn, đã tiêu diệt toàn bộ địch trên đỉnh đồi. Các đơn vị chiếm được những đỉnh cao xung quanh 1062 nhưng với sự trả giá rất đắt. Ba vị sĩ quan của Đại Úy Trọng bị hy sinh, Đại Úy Tửu bị thương, các đại đội khác đều bị hao hơn phân nửa quân số.
Sau khi ra Hà Nha hơn 1 tháng, Đại Đội 15 của Đại Úy Lộc và Thiếu Tá Phú nhập vùng, biệt phái cho Tiểu Đoàn 9. Riêng Đại Đội 11 nghĩ được 2 tuần thì được lệnh di chuyển ra BCH/LĐ1ND (Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù), và tại đó được trực thăng Chinook bốc vào mục tiêu "B" tăng cường cho Thiếu Tá Phú để thanh toán mục tiêu "D1" và "D2" nhằm giải tỏa áp lực cho Tiểu Đoàn 9 đang ở đồi 1062.
Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen", Khóa 19 Võ Bị Thủ Đức) là một sĩ quan rất can trường và tháo vát. Anh là một trong những con gà giỏi của Tướng Lê Quang Lưỡng khi ông còn làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Thiếu Tá Phú sử dụng tối đa các phi tuần A-37 vì độ chính xác thấp. Trong lúc họp, Đại Úy Thể đưa ra đề nghị đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách đi vòng qua thung lũng thay vì đi theo yên ngựa (do kinh nghiệm lần trước tấn công mục tiêu B và C.).
Thiếu Tá Phú theo kế hoạch này ra lệnh cho Đại Đội 11 và Đại Đội 15 xuyên qua thông thủy tiến sâu về phía Bắc, rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2. Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, kết quả: Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy địch thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Trung Tá Nguyễn Đình Ngọc (tiểu đoàn trưởng), Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt, lúc đó đang đi phép vì ông thân sinh vừa qua đời, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Khóa 20 Võ Bị Đà Lạt, lên làm tiểu đoàn trưởng, cùng Đại Úy Nguyễn Hiền Triết, Trưởng Ban 3, đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (tiểu đoàn phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Phương cho các đại đội tung người ra lục soát, cánh Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn trung đội tiến tới chiếm chốt phòng-thủ mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức.
Địch chiếm lại chốt đó và lại đặt súng đại liên bắn vào vị trí Nhảy Dù. Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Lân cũng hy sinh. Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai thèm đến vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Hạnh lên làm tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm tiểu đoàn phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (tiểu đoàn trưởng), Khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, và Thiếu Tá Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm tiểu đoàn phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương đông kích tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Subscribe to:
Posts (Atom)